Thứ Tư, 28 tháng 11, 2012

Về nơi cát rộng, tình dài - Nguyễn Bội Nhiên




Về nơi cát rộng, tình dài
Copy từ Báo quảng trị



(QT) - Bữa ấy, trong dáng thu gầy guộc giữa đất trời Quảng Trị, thi sĩ Võ Văn Luyến đưa tôi về quê nhà Hải Lăng của anh bằng con đò nan mộc mạc men theo dòng Ô Lâu trong vắt lời ca dao tình sử. Đó là lúc mỗi làng quê xanh mướt bên muôn khoảnh sóng Ô Lâu thanh bình là mỗi làng sương khói. Chợt, từ đâu đó hoặc sau lũy tre gió hòa tiếng lá, hoặc trên dòng sông chảy qua làng yên rồi ra phá rộng vẳng lên giọng ngân vang dài: “Trăm năm đành lỗi hẹn hò/ Cây đa, bến cộ, con đò khác đưa/ Cây đa, bến cộ còn lưa/ Con đò đã thác năm xưa tê rồi”. Từ đây, tượng đài tình yêu bất tử này ngấm vào tôi hồn quê Hải Lăng thuần hậu với cát rộng, tình dài.

Cát rộng Hải Lăng, chính phong thổ ấy trải ra trên bạt ngàn cồn cát ven biển, ven sông ở Hải An, Hải Khê, Hải Dương, Hải Tân, Hải Hòa, Hải Thọ, Hải Chánh...Trong màu nắng tươi của sắc thu chiếu dọi, tôi đọc trên cát trắng Diên Sanh bài ca "Mười trứng" và nghe Luyến nói về sự uyên áo, lòng lạc quan tuyệt vời của người Hải Lăng: “Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn/ Tháng khốn, tháng nạn/ Đi vay, đi dạm/ Được một quan tiền/ Ra chợ Kẻ Diên/ Mua con gà mái về nuôi/ Hắn đẻ ra mười trứng: Một trứng ung/ Hai trứng ung/ Ba trứng ung/ Bốn trứng ung/ Năm trứng ung/ Sáu trứng ung/ Bảy trứng ung/ Còn lại ba trứng/ Nở được ba con: Con diều tha. Con quạ gắp (quắp). Con mặt cắt lôi/ Lấy chi đâm dánh (nhánh) nảy chồi/ Khổ như ri chừ đà quá khổ/ Lần hồi cũng qua”. 


Theo sự tường minh của Luyến, tôi hiểu ra phẩm chất nghệ thuật rất tự do của bài ca dao này đã cho phép các yếu tố hiện đại có mặt một cách sống động trong một tác phẩm dân gian. Đến khi hòa vào lòng thương yêu của con người, của nhân dân nơi miền quê thường gặp nhiều gian khó, chính những tự do và hiện đại đó đã đưa bài ca dao "Mười trứng" đến một dị bản đáng kính cũng thuộc vào hàng bậc nhất trong văn chương truyền khẩu bởi lòng nhân hậu tuyệt vời: “Tháng giêng, tháng hai, tháng ba, tháng bốn/ Tháng khốn, tháng nạn/ Đi vay, đi dạm/ Được một quan tiền/ Ra chợ Kẻ Diên/ Mua một vác tre về dựng cái quán/ Ai hờn ai oán/ Đốt quán tôi đi/ Tôi thương cái tranh/ Tôi nhớ cái tre/ Tôi thương cái cột/ Tôi nhớ cái kèo/ Bạn nghèo gặp nhau”.

Ngay trên miên man cát trắng ở nơi sản sinh bài ca dao kỳ diệu ấy, tôi thụ bẩm tinh thần lạc quan và lòng nhân hậu quý giá của con người Hải Lăng với niềm tin, Bùi Tả thị nổi tiếng công khanh, xứng danh cựu học; Bùi Dục Tài sớm nên sĩ vọng, đột phá khai khoa là nhân vật đã được hun đúc bằng chính phong thổ tuấn dật của vùng đất thấp mà lại cao bên dòng Ô Lâu khắc ghi mối tình huyền sử muôn đời nuôi dưỡng những hy vọng và yêu thương. Trên cát rộng, tình người Hải Lăng dài lâu là vậy.

Bên khóm cúc vào thu đà thêm già cốt cách, mùi vị ngọt mát thơm ngon thanh tao của món canh ám làng Lam được người vợ hiền của Luyến nấu đãi khách phong lưu khiến tôi lặng im nâng chén rượu Kim Long trong ngần sủi tăm bên thành sứ để cảm tạ tấm chân tình của bạn và phong vị quê nhà. Đây là lúc tôi hiểu, bởi từng chưa đến làng Lam Thủy của xã Hải Vĩnh nên tác giả của sách "Ô châu cận lục" đã không đưa món canh ám làng Lam vào phần Môn Phong tục trong sách của mình.

Phải vậy thôi khi phần Nguyên chú ở trang cuối phần Môn Phong tục được tiến sĩ Dương Văn An viết rõ: “Một ngày bãi chầu xong, tôi ngồi tại bộ xem khắp bản đồ đất nước và tên các làng, xã, huyện trong hai phủ Tân Bình, Triệu Phong mới tùy hứng viết hai bài này. Đại để lấy tên làng để gợi ý, vì thế trong đó... được đằng này lại mất đằng kia, không khỏi gò ép, sai sót. Xin chờ các bậc quân tử học rộng, nghe nhiều lưu tâm bố chính”. Vậy thì đến nay, người Hải Lăng đã giúp tiến sĩ Dương Văn An bố chính phong tục quê mình bằng những thành ngữ, tựa như: “Canh ám làng Lam, mắm đam Trà Trì”...

Bên ngoài, dòng Vĩnh Định êm đềm chảy qua bờ đê rợp bóng dương liễu, chảy mãi vô cùng, chảy trên Cửu đỉnh ở Thế Miếu trong Đại Nội của cố đô Huế và thêm vào đất và người Quảng Trị niềm tự hào chinh phục tự nhiên, xây đắp phong vận tốt tươi của quê nhà.

Trong sự đi lên của đời sống, người Hải Lăng vẫn giữ nghĩa tình và làm việc thiện với cảm nghĩ vẻ vang hơn ăn ngon mặc đẹp. Nhờ thế mà họ hoan hỉ gìn giữ một cách nguyên vẹn khuôn mặt cổ sơ của rú Câu Hoan ở xã Hải Thiện để cùng muôn nhà lưu truyền câu thành ngữ rất đỗi tự hào “Rú Câu Hoan, quan Cổ Lũy”; trồng cây xanh, lập làng sinh thái để xóa đi hiện tượng cát bay, cát nhảy, cát chạy, cát chảy, cát trôi, cát lấp trên một dải tiểu sa mạc hình chữ Nhất kéo dài từ Tây sang Đông; mang thêm sách vở và niềm vui học hành chữ nghĩa về với con trẻ ở các “càng”: Cây Gia, Mỹ Chánh, Hội Điền, An Thơ của các xã vùng thấp trũng Hải Thọ, Hải Chánh, Hải Hòa... Để rồi những ngôi làng nơi miền quê tưởng chừng sẽ bị sa mạc hóa vào mùa nắng hoặc bị cô lập vào mùa mưa lũ đã có diện mạo mới với bao thôn xóm vui vầy nối tiếp nhau bằng những con đường thơm mùi nhựa mới.

Những con đường ấy đưa người dân của làng này làng khác đi về phía trước với những cố gắng giã biệt bước chân bước thụt bước lùi trên cát mà vun trồng bản lai của sen Hải Lăng rực rỡ như ở Tây Hồ, đưa cháo bột vạt giường Diên Sanh và Kim Long mỹ tửu đến với tao nhân mặc khách muôn phương. Và không ở đâu như ở đây, tôi nghe từ giọng nói trầm ấm mà nhỏ nhẹ của Luyến những câu chuyện về đất và người Hải Lăng chan chứa tình cảm đến vậy. Truyền qua tôi một cảm xúc bùi ngùi và trân trọng, Luyến khẳng định chính vùng quê bĩ cực Hải Lăng chưa nắng đã hạn khô, chưa mưa đã ngập lụt ngày trước đã rèn nên nhiều người con đỗ đạt, hữu ích với đất nước, từ Bùi Dục Tài là tiến sĩ đăng khoa đầu tiên ở Đàng Trong mà tên tuổi sáng tỏ trên bia tiến sĩ ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám, ông Nghè Nguyễn Đức Hoan yêu quê và thương dân đến biết bao bác sĩ, kỹ sư, giáo viên...hôm nay.

Từ đất học Câu Nhi có người anh tuấn là vị tiến sĩ đã đưa nhân tài phong thổ Ô châu có thể sánh với miền ngoài, tôi theo Luyến qua làng Phú Kinh để được nghe các bô lão nói chuyện khuyến học với quỹ Học điền thuở trước cùng hương ước của làng hôm nay vẫn luôn ưu tiên chăm lo sự học. Trong câu chuyện mỗi lúc một thêm đầm ấm với trầu cay cau ngọt và nước chè xanh của các cụ, tôi hiểu thêm một điều rằng chính nết đất, hồn quê và sự học ở Hải Lăng đã sinh thành những con người cương thường, trung tín, chuộng nhân văn.

Niềm ngưỡng mộ chân thành đã đến khi tôi nghe chuyện người con gái nết na Nguyễn Thị Bích của làng Mỹ Chánh, xã Hải Chánh trở thành người vợ hiền thục của anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ-hoàng đế Quang Trung; chuyện cô gái xinh đẹp Dương Thị Ngọt ở làng Hội Kỳ của xã Hải Chánh là ái phi của vua Thành Thái mà cái chết oan uổng đã đưa cô trở lại nơi cắt rốn chôn nhau với nghi lễ của triều đình nhà Nguyễn dành cho một hoàng phi; chuyện bà Trương Thị Dương ở xã Hải Sơn là người phụ nữ được ghi tên trên bia mộ của hai chí sĩ yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân của phong trào Duy Tân bởi sự mưu trí, tận tâm và lòng dũng cảm khi bí mật cải táng hài cốt hai nhà chí sĩ của phong trào Duy Tân về yên giấc ngàn thu giữa ngàn cây trên sườn đồi Thủy Xuân của miền núi Ngựsông Hương; chuyện về nữ anh hùng Trần Thị Tâm, người con gái anh dũng ngăn chặn thành công một trận càn của Mỹ-ngụy với nhiều đạn, pháo, xe tăng, máy bay yểm trợ và hy sinh oanh liệt trên cát trắng Hải Khê, trở thành bất tử trong lòng người và trong lịch sử dân tộc... Cát Hải Lăng rộng là vậy và tình người Hải Lăng dài lâu là vậy.

Giữa làn gió thoảng đưa tiếng trống tựu trường, bước chân tôi bịn rịn trên cát ở vùng đất đang thêm an khang vào đời sống. Trong lời tiễn đưa và hẹn ước với tôi, thi sĩ Võ Văn Luyến mời tôi lần sau về Hải Lăng vào những ngày đầu xuân bởi khi ấy người Hải Lăng mở hội đua bơi như hàng trăm năm trước đã được ghi vào sách quý của các bậc tiền hiền. Phong tục Hải Lăng thuần hậu vốn nhiều, sách "Ô châu cận lục" từng ghi và đang được hôm nay bố chính, nên ở đây, tôi cảm nhận được những xao xuyến tình quê và hiểu mạch nguồn sâu thẳm của câu thơ về phong thổ quê nhà mà Võ Văn Luyến từng viết: “Thế gian thay lạch đổi dòng/ Hiển tâm như cát thật không dễ gì”.

Khi nắng rời mặt sông Ô Lâu và sương đã điểm những dấu chân trên cát, tôi nhẩm thuộc câu thơ: “Thì đã yêu con sông khi đi bên em/ Anh hoài cảm về cô lái đò ngày xưa ấy/ Nước vẫn chảy, bèo vẫn trôi nhưng hình hài trái tim ở lại/ Đập nhịp rộn ràng” (Đi bên dòng sông tình sử-Võ Văn Luyến).

     NGUYỄN BỘI NHIÊN

NGUỒN: BÁO QUẢNG TRỊ

Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2012

Mưu sinh mùa nước nổi


     Sáng nay, lại được "đi Ghe", gần 1tiếng đồng hồ choòng chành trên Ghe nhỏ đi từ Làng ra mấy Cồn lẽ tẽ ngoài ruộng để chụp hình Lăng Mộ cho khách, mới thấy được sự nhộn nhịp của cánh đồng Làng mùa nước nổi này: Giăng lưới, đánh cá, bẩy Cò,...công việc mưu sinh hằng ngày của những người dân vạn chài,.....tiếng cọc cạch của từng nhịp Châm đập  mạn thuyền nghe mà thích,. cảm thấy mình muốn sống chậm lại, suy nghĩ hồi lâu, àh,!!! thì ra mình cũng đang choòng chành mưu sinh hè !


" Cò mồi "

mùa nước nổi là dịp tốt để các gia đình xây dựng
sửa chữa Lăng mộ ở những vùng nghĩa địa ở xa, lẽ tẻ không có đường
 vận chuyển vật liệu bằng đường bộ, mà phải vận chuyển bằng thuyền ghe máy.

giáp Càng Hội ĐIền

" Đồng Tháp Mười Hải Lăng "



( Xin mượn đăng bài thơ Đồng Tháp Mười Hải Lăng của Thầy Võ Văn Hoa,và cũng rất tình cờ, bài thơ này đã được sáng tác đúng tròn 1 năm)


ĐỒNG - THÁP- MƯỜI- HẢI - LĂNG
Duềnh lên con nước bạc
đồng- tháp- mười- hải - lăng
Mai này về có khác
Đê bao nói hộ rằng
*
Càng Cây Da trầm mặc
Càng Hội Điền xa trông...
Chim trời và vịt nước
Mây trắng mấy tầng không
*
Người Diên Trường hiếu khách
Cá đồng vội mang về
Nhâm nhi bên chảo lửa
Một chút hương đồng quê
*
Đường cảng sâu Mỹ Thuỷ
Vắt ngang ở cuối trời
Mặn lòng nên thầm gọi
...tháp- mười- hải - lăng ơi!
            3h ngày 25/11/2011
                VÕ VĂN HOA

..."mình cũng đang choòng chành mưu sinh ....."



Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

THÔNG BÁO CỦA PHÂN ĐOÀN SÀI GÒN





THÔNG BÁO VỀ VIỆC THI ĐẤU GIAO HỮU BÓNG ĐÁ

Chiều Chủ Nhật ngày 25/11 vào lúc 4h30 đội bóng HƯNG NHƠN.SIGO FC sẽ thi đấu với FAMILY FC
        Địa Điểm: tại Sân A2, bên cạnh nhà hàng Hương Sen - và Ngân Hàng Quân Đội 4h30-6h. Tại đường Cộng Hòa - quận Tân Bình. Anh em tham gia đầy đủ.. Ai không có facebook thì anh em nhắn lại nghe..



Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

“Ăn ruộng” ở làng Hưng nhơn trước 1945 - NGUYỄN THANH XUÂN



 Lời dẫn:Tôi xin trích những nét chính trong chính sách ruộng đât ở nước ta đến trước Cách mạng tháng 8 - 1945

Chính sách ruộng đất trước 1945

     Quy tắc điền thổ truyền thống ở Việt Nam: đất ruộng trong nước đều là của nhà vua kể từ thời nhà Đinh, Tiền Lê, người nông dân nhận ruộng cày cấy và nộp tô thuế cho triều đình. Tuy vậy, trên thực tế những ruộng đất do người dân cày lâu ngày được coi như của riêng, có thể mua bán. Ruộng tư là đất riêng do tư nhân  khai hoang,trồng trọt và nộp thuế. Đất này có thể mua bán, cầm cố, có thể thừa kế, nếu triều đình muốn trưng dụng phải trả tiền bồi thường. Ruộng công là đất của công, do triều đình giao cho xã, thôn sử dụng và cấm bán, trừ một vài trường hợp có thể cầm cố trong hạn 3 năm, hết hạn phải lấy lại. Ruộng này cứ 3 năm phân chia lại 1 lần cho dân đế mỗi người đều có một số ruộng tương tự nhau một cách công bằng, cách này gọi là phép quân điền.
     Đến thời vua Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ này để bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân. Đạo dụ năm Gia Long thứ 2 (1803) ghi rõ:
"Theo lệ cũ thì công điền công thổ cấp cho dân, đem bán riêng là có tội, Phàm xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền...
        Tới thời Minh Mạng định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng 1 phần khẩu phân như nhau.Người già, người tàn tật thì được nửa phần, cô nhi, quả phụ được 1/3. Trong khi thực hiện quan lại, cường hào thường dành được những phần tốt hơn
        Sang thời Tự Đức vẫn diễn ra tình trạng này, triều đình tỏ ra bất lực,



……………………..
--**-----**-----**-----**-----**--
     Thuật ngữ “ăn ruộng” không biết xuất hiện ở quê ta vào thời gian nào,nó thay cho “phép quân điền” của nhà vua ban xuống. Tôi cũng không biết hiện nay ở làng ta viết trên văn tự là phân chia ruộng hay ăn ruộng như xưa. Về hình thức chữ nghĩa thì nghe lạ: Ruộng mà lại ăn, ăn cơm ai lại ăn ruộng. Có lẽ quê ta người nông dân có ruộng mới làm nên hạt gạo, mới no.Khái niệm này cũng tương tự người dân Nghê Tĩnh “ăn thuốc”.
    Suy nghĩ, tôi thấy khái niệm “ăn ruộng” thật hay thật đúng ý nghĩa đích thực của nó.Ta thử hiểu chia hay phân chia có nghĩa là một bên chia và một bên nhận, người nhận không có quyền lựa chọn. cái quyền bình đẳng mà người dân có được. Ăn ruộng như ăn cơm. Đồng ruộng như một mâm cơm,có món ngon món dở…ai thích món nào gắp món đó. Tuyêt vời ! Tuy vậy đồng ruộng quê ta chất lượng khác nhau xa. Làm thế nào để có giá trị tương đương (tám-chín- mười) cũng là vấn đề khó. Nghiên cứu phương án này phải dầy công. Tôi tin các kỳ đại hôi Nông dân làng sẽ tìm được phương án khả dĩ.
    Làng ta tất cả là ruộng công không có ruộng tư. Tôi nhớ không chắc lắm hình như năm 1944 hay đầu năm 1945 làng ta chia ruộng theo thông lệ 3 năm/ lần.Sau khi trích các loại ruộng cho việc thờ cúng…còn bao nhiêu chia đều cho số đinh hiện có (từ 18 đến 60) Già lão tàn tật,cô nhi, quả phụ có được chia không tôi không rỏ.Việc ăn trước sau theo thứ tự phẩm hàm. Cụ thể tiên chỉ là Trần Văn Lý (tam hay tứ phẩm) không thấy ai ngũ lục phẩm đến thất phẩm như Thất Cẩn, thất Chiểu, đến bát phẩm như bảt Kế, bát Bệ bát Phổ…đến cửu phẩm, thập (người đi lính) học sinh đậu yếu lược trở lên (không rỏ tú tài xếp vào hạng nào) Hết hạng này là đến bạch đinh. Bạch đinh xếp theo tuổi ai cao tuổi ăn trước,rồi còn tiếp là những người không có ông tổ Khai canh (gọi là ngụ cư) Còn các cụ Hương Lý ăn theo hạng nào tôi cũng không rỏ.
   Hương ước của làng là người dân trực tiếp ăn ruông, dù phần ruộng đó đã bán và cũng chỉ được bán cho người trong làng (không được bán cho người làng khác).Người mua ruộng trình khế ước mua bán, người bán giao người mua nhận thay phần ruộng của mình. Thời bấy giờ việc bán “ruộng non” diễn ra thiên hình vạn trạng. Có thể thấy hồi đó làng ta chỉ một số khá giàu như Trần văn Trinh, Trần văn Hoàng Trần văn Liễn, một sồ mới trỗi dậy như thất Cẩn, thất Chiểu, biện Châm…còn không mấy ai có máu mặt, có chăng cũng có thể mua vài suất, cũng có những người làng khác thì thọt với những đại gia làng ta gửi tiền mua trước v.v…
   Chia diện tích như nhau nhưng chất lượng mới là cái đáng nói:Khái niệm ăn ruộng như trên đã nói là tuyệt vời là công bằng thứ tài sản tổ tiên khai khẩn để lại cho con cháu.Thế nhưng thực tế lại chỉ công bằng về hình thức và xét cho cùng khi thực hiện (ăn ruộng) là không công bằng một cách đau đớn.
  Trước khi ,nói cảnh ăn ruộng. Tôi xin nói qua chuyện tại sao lại bán ruộng: bởi đó là gia đình quá nghèo bán phần ruộng của mính (sẽ được chia lần tiếp sau 3 năm nữa) để sống qua ngày, là gia đình gặp khó khăn thiếu nơi giúp đỡ, (bán trước thời kỳ chia ruộng là bán ruộng non) con gia đình không có sức lao động thì có thể bán hoặc cho cấy rẽ.Trong số Bán ruộng non này có người cả đời không biết mình cũng có mảnh ruộng trên cánh đồng mà tổ tiên để lại, vì họ luôn phải bán non mỗi 3 năm trước và tiếp bán ruộng sẻ được chia lần chia 3 năm sau….
     Hương ước cấm không được bán ruộng cho người làng khác có nét đẹp của quê hương nhưng xét về mặt “thị trường cung cầu” thì bị thu hẹp.Ở quê ta hồi đó nông dân các làng lân cận như Mỹ xuyên,Trạch phổ v.v…sẵn sàng mua với giá cao hơn, nhưng buộc lòng phải bán cho trong làng với giá rẻ mạt.  



---****---****---****---****---
     Những ngày ăn ruộng là như những ngày hội vì ai cũng muốn kiếm cho mình đám ruộng ưng ý, thuận lợi, không được mặt này thì được mặt khác. Tuy biết chưa đến lượt mình cũng đến lân la dò xem nơi ấy, nơi kia ai ăn chưa, rồi xuýt xoa tiếc nuối v.v… Tôi tuy mới 15,16 tuổi cũng luôn có mặt vì đây là lần đầu tiên biết đến chuyện làng ăn ruộng. Háo hức nghe các ông các bác bàn tán lần chia ruộng kì trước, những hy vọng lần này…Qua mấy ngày lạ lẫm, bở ngỡ mấy “đứa tôi” (cùng lứa học trò) hết háo hức bởi những tiếng thở dài của các bác nông dân. Tôi hình dung giữa đình làng (nơi ăn ruộng) vừa vô cùng vui vẻ, ồn ào và  lộn xộn vừa vô cùng nín chịu buồn bã, có bác vừa đi vừa lẩm bẩm rồi                                                                                                                                                                                                                                                                                                                “đâu vào đấy” cả thôi.
     Các Đại gia đã nhắm sẵn: Đại gia A  có trong tay mấy suất dự định chiếm khoảnh (đạc) nào, đại gia B chiếm đạc nào, đại gia C hoặc ông nầy bà nọ tuỳ chừng mấy mẫu mà chiếm đạc X hay Z v.v… Họ chỉ cần “ăn” phần của họ (khoảng 3 sào) lên đầu đạc thì đố ai dám “ăn” tiếp đạc ấy mặc dầu đên phần mình và thich ăn chổ đó.Thực tế đó rỏ ràng nhiều vị bát cửu phẩm chưa chắc đã ăn được ruộng tốt hơn ruộng bạch đinh bán cho đại gia. Cứ thế, cứ thế liền đạc liền vùng ruộng tốt mặc dầu mua những ruộng hạng bạch đinh, mua “ruộng non” giá như bèo như cho không. Có ai ngây thơ hỏi tại sao họ không làm mà giầu có đến vậy? Người dân nghèo khổ đến vậy? Người giàu thì bình chân như vại, số rất ít hí hửng có được chổ tàm tạm còn đa số lầm lì như không có sự kiện quan trọng thiết thân với đời sống gia đình họ. Đối vối họ 3 năm, 3 năm và 3 năm mãi mãi là nỗi ám ảnh không lối thoát, nếu không có cuộc cách mạng của thời đại.

               Nguyễn Thanh Xuân  Email: nhuxuan29@gmail.com
   
   

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Chúc Mừng đầy tháng cháu Nguyễn Như Khang

Chúc Mừng đầy tháng cháu Nguyễn Như Khang,con trai của anh chị Nguyễn Như Lĩnh & Phan thị Mai,mình chính thức lên chức Chú.


TRUY TÌM GỐC TỪ "CÀNG" TRONG ĐỊA DANH "CÀNG HƯNG NHƠN" - Nguyễn Thanh Xuân




* Hải Lăng là Huyện cực Nam của tỉnh Quảng Trị, có nhiều CÀNG. Càng là cánh tay nối dài của đơn vị hành chánh dưới  các thôn, làng. Bài viết của Ông Nguyễn Thanh Xuân đáng để cho chúng ta suy ngẫm !

Tác giả Trong lần về quê tháng 8 năm 2012

TRUY TÌM  GỐC TỪ "CÀNG" TRONG ĐỊA DANH "CÀNG HƯNG NHƠN"
   Từ CÀNG là thuần nôm (chữ Hán không có) có hai đồng âm:
   + Càng con cua, càng xe bò… là danh từ
   + Càng học càng biết …là trợ từ
    Từ Càng (Hưng Nhơn…) không có trong nghĩa gốc liệu ta truy tìm tranh luận lấy gì làm căn cứ rồi ai làm trọng tài?
    Do từ Càng khác lạ, nhưng nó ở vị trí này, ta xem nó như  là một đơn vị hành chánh dưới xã: thôn, xóm, phường, ấp, càng…
    Ta thử xem: đến bây giờ những tên gọi làng xã phường thôn ấp xóm…còn lung tung, huống gì thời tiền sử.
    Thử một ví dụ cụ thể: XÃ HẢI HÒA
Trước 1945 xã và làng là đồng cấp (chữ Hán gọi là Xã, dịch ra tiếng Việt gọi là Làng).
   Ở xã (làng) Hưng Nhơn không có thôn mà dưới làng là xóm. Ra đồng ruộng có Càng, lên rừng có Phường.
   Ở xã (làng) An Thơ thì lại đa dạng hơn: Ở làng có phường, có thôn có xóm, ra đồng ruộng có càng An thơ, càng Mỹ Chánh, càng Hội Điền, lên rừng có phường An Thơ tuy ở làng đã có phường.
    Ở Phú kinh cũng na ná vậy.
    Bây giờ, chế độ quản lý hành chánh mới: Xã (gồm nhiều xã cũ), xã cũ gọi là thôn, xóm. Bỏ từ Làng.
   Trở lại nói chữ Càng. Với tôi không nên bàn, nó đã quen gọi, bây giờ cứ thế mà gọi, cũng có thể thành lâp xóm. Như Hưng Nhơn hiện có ba xóm nay thêm một xóm. Thôn Hưng Nhơn có bốn xóm. Tên xóm thì trưng cầu dân ý. Mai đây tình hình thay đổi có thể lên thôn cũng nên. Càng Văn Trị nguyên là Càng của Văn Quỹ nay là thôn Văn Trị đồng cấp thôn Văn Quỹ.
  
   Có một đoạn trong bài viết nói trên là tác giả nghe người cao tuổi làng Hưng Nhơn rằng Càng là nơi cho dân đến lưu trú (ngụ cư) ra đó để bảo vệ và phải làm một số việc theo yêu cầu của chức sắc, từ đó luận ra là bà Giàng Bưng Đá là dân ngụ cư. Bạn ơi! Không phải đâu. Người kể (xin lỗi, ai đó người già) có thể nhớ lẫn lộn, tôi nhắc bạn chú ý rằng người đến lưu trú ở Hưng Nhơn duy nhất là người Họ Võ cách đây dưới 200 năm mà Bà Bưng Đá chia đất giữa các làng cách đây 500 năm. Bà Bưng Đá theo tôi là thế hệ I khai canh ra Làng, sao nghĩ là người ngụ cư!?
   Còn đoạn nói rằng: vùng đất này thật lạ là xã nào cũng có Càng như Mỹ Chánh cách trên 10 km cũng có Càng dưới này. Hóa ra, bạn chưa hiểu lắm về vùng đất này. Mỹ Chánh nguyên là một thôn của An Thơ, bà con trong thôn ra ở ngoài đó (Càng) cho thuận tiện canh tác, khi lên khai phá vùng đất mới, quá trình tụ cư lớn lên nhanh chóng, họ thành lập làng Mỹ Chánh (tách hẳn với làng An Thơ), chỗ Càng cũ họ vẫn giữ kể cả ruộng canh tác. Vậy đó nên chẳng có gì là lạ cả.
    Do địa thế vùng dân cư và ruộng canh tác của các xã bờ bắc Ô Lâu vừa trũng vừa xa, việc đi lại canh tác, bảo quản  khó khăn, cần có chỗ ở tạm, sau dần lên năm bảy nhà thế là cần có tên gọi chỗ ở là Càng. Có người cho rằng nó như càng cua bảo vệ nơi hẻo lánh. Bảo vệ gì với lực lượng mỏng tang èo ọt, liệu có chống nổi rắn rết nói chi đến chống  người ngoài xâm phạm. Gọi Càng chưa đủ để biết một địa chỉ mà phải kèm theo một địa danh khác như Hưng Nhơn, An Thơ chẳng hạn, cho nên mới có tên kép là Càng Hưng Nhơn; Càng An Thơ… Vô phép tôi lạm bàn ta có thể bỏ từ Càng mà thay vào xóm A Hưng Nhơn; xóm B An Thơ v.v…
  Vùng trũng không có đất trồng khoai sắn, lên rừng khai phá và gọi là Phường. Làng nào cũng có phường. Kể ra gọi  phường là không đúng. Phường là đơn vị dưới Quận ở Thành phố. Quen rồi cũng rồi (có nơi gọi phường săn bắn; phường khai hoang), nhưng ở làng làm nghề ruộng mà gọi Phường thay là phải.
Nguyễn Thanh Xuân
             Email: nhuxuan29@gmail.com

ông Nguyễn Như Xuân( bìa phải) trong lần về thăm quê,tham dự  buổi phát thưởng Khuyến Học của Họ Nguyễn ( Đức-Hữu-Như) Làng HN

Thứ Năm, 15 tháng 11, 2012

Lễ Động Thổ xây dựng Đình Làng Phú Kinh và ngày hội đại đoàn kết toàn dân - Khu dân cư Phú Kinh

( bài gửi đăng )

    I, Lễ Động Thổ xây dựng Đình Làng



LÀNG PHÚ KINH               CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BVĐ Quỹ XD Đình Làng                      Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
--------------------------------                       ---------------o0o--------------
                                                                 Phú  kinh,ngày 10 tháng 01 năm 2012                  

THƯ NGỎ
BAN VẬN ĐỘNG QUỶ XÂY DỰNG ĐÌNH LÀNG PHÚ KINH

                   Kính gửi: Bà con Làng Phú kinh(Xa quê)
               Đình Làng Phú kinh đã hình thành cách đây hơn 400 năm.
Trong những năm chiến tranh.Ngôi Đình Làng đã bị đốt cháy.Sau ngày hoà bình lập lại,trên nền đất cũ Đình Làng đã xây dựng  ngôi trường hoc.Theo chủ trương cuả Nhà nước.Về sau HTX đã xây dựng Hội trường để Hội họp
                .Để tỏ lòng thành kính tri ân quý Ngài tiền nhân.
                Theo nguyện vọng của toàn thể bà con dân làng,và những người con quê hương Phú kinh xa quê,và được chính quyền địa phương cho phép.Ngôi Đình Làng Phú kinh sẽ tiến hành xây dựng lại để phụng thờ quý ngài.Khai canh ,khai khẩn của làng.
               Tổng giá trị công trình tạm tính khoản: 700.000.000đ(Bảy trăm.triệu đồng)
Mặc dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn.Nhưng bà con ở quê đã cố gắng đóng góp trong 2 năm 2011 và 2012 khoản 400.000.000đ(Bốn trăm triệu đồng)
     Phần còn lại nhờ sự hỗ trợ tích cực của bà con xa quê.
               Công trình đến nay đã khởi công xây dựng.Vì vậy Ban vận động kêu gọi,bà con Phú kinh xa quê. Hướng về nguồn cội của ít lòng nhiều.Phụng cúng bằng Tiền mặt,hoặc hiện vật.Để cùng người dân ở quê xây dựng lại ngôi đình làng ,hoàn thành trong năm 2012
                              Kính chúc bà con mạnh khỏe.Hạnh phúc 
 Cây có gốc mới trở thành sanh ngọn.
Nước có nguồn mới Biển rộng sông sâu
           Người con Phú kinh từ đâu?
 Nhờ Tổ tiên trước ngày nay có mình.
         *Chim có Tổ.Người có Tông
 Dù cách núi ngăn sông luôn nhớ về Tông,tổ
         *Cây có cội ,nước có nguồn,
dù xa xôi vạn dặm luôn nhớ về nguồn cội./.

                                                                                             TM/BAN VẬN ĐỘNG
                                                                                                          Phó ban
Địa chỉ liên hệ: Lê  Hồng  Trưởng ban ĐT  01645264617
 Lê Phước Tính  Chủ nhiệm HTX 0987650757
 Lê văn Đàn  Bí thư chi bộ.   01654583067 
Phan Đình.BCT Mặt trận thôn.01689207860                                  Lê Phước Tính


MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG NGÀY LỄ ĐỘNG THỔ XÂY DỰNG ĐÌNH LÀNG & HỘI ĐUA THUYỀN TRUYỀN THỐNG THÔN PHÚ KINH
                                                                                              
      











II.HỘI ĐUA THUYỀN TRUYỀN THỐNG THÔN PHÚ KINH

đại diện Huyện Tặng qùa cho các gia đình tiêu biểu


Thêm chú thích
Tân Trưởng Thôn














Những cổ động viên nhiệt tình nhất







Đua thuyền truyền thống trên sông Ô Lâu


ghe về nhất trong Hội Đua năm nay.

ghe về nhì


vui cùng ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc

KẾT QUẢ HỘI ĐUA THUYỀN NĂM NAY
 Nhất : Đội I
Nhì   : Đội 5
Ba    : Đội 3