Đến năm 1945, người có tên tuổi hơn cả là Tiên chỉ làng ta Trần Văn Lý, nghe đâu ông làm Tổng đốc ba tỉnh ở Nam kỳ.Tôi chưa biết mặt. Năm bà mẹ ông mất (mụ Thừa), đưa thi hài bà từ trong Nam ra, các chức sắc và dân làng lên rước từ trên đường quốc lộ 1, chắc ông có về. Lúc đó tôi chưa ý thức là cần phải biết nên không chú ý tìm. Thế là sau này không có dịp nào nữa. (+)
**--**--**--**-**--**
Tìm hiểu về bộ máy điều hành làng
Thời kỳ vua Bảo Đại
Theo qui định bộ máy chức sắc ở làng
(trích văn bản của Khâm sứ Trung kỳ và vua Bảo đại)
MỘT HÌNH ẢNH TRONG LỄ THANH MINH TẠI ÂM HỒN LÀNG HƯNG NHƠN |
* ủy ban Thường trực Hội đồng Kỳ mục: Thành viên ủy ban Thường trực do quy mô của xã mà quy định, với 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và từ 2 đến 4 uỷ viên cố vấn nếu là xã nhỏ, từ 4 đến 7 uỷ viên nếu là xã vừa, từ 7 đến 10 uỷ viên nếu là xã lớn. Số lượng này do quan tỉnh ấn định sau khi có sự đồng ý của Công sứ Pháp.
ủy ban Thường trực bao gồm Lý trưởng và những nhân vật có chức danh cao nhất trong Hội đồng Kỳ mục, song các viên chức đang làm việc tại công sở của chính quyền bảo hộ và quan lại đương chức của Nam triều không được tham gia ủy ban. Quyền hạn của ủy ban Thường trực là hoạch định mọi công việc của làng xã, như lập ngân sách hành xã, lập sổ thuế thân, thuế điền, tổ chức phân chia công điền công thổ, chỉ đạo việc xây dựng các công trình công ích, xét xử các vụ vi phạm nhỏ về hương ước, kiểm soát hoạt động của các chức dịch, lý hương... ủy ban họp ít nhất mỗi tháng một lần, nguyên tắc và thể thức giống như Hội đồng Kỳ mục.
* Ngũ hương: Về đội ngũ giúp việc ở xã, ủy ban Thường trực Hội đồng Kỳ mục chỉ định người giúp việc cho Lý trưởng, gọi là Ngũ Hương. Đội ngũ Ngũ Hương bao gồm 5 chức vụ: Hương bộ, Hương bản, Hương kiểm, Hương mục và Hương dịch. Mỗi chức đó thi hành một nhiệm vụ nhất định do ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục xã phân công và giám sát.
- Hương bộ chủ yếu nắm giữ sổ hộ tịch của xã, nắm giữ sổ sách những người phải đóng thuế thân và thuế ruộng đất, sổ sách về công điền, công thổ của xã. Đối với những thôn, ấp, giáp hoặc xóm mà chính quyền cấp tỉnh cho phép lập sổ hộ tịch riêng, chính quyền cấp tỉnh cũng cho phép những nơi đó đặt chức Phó Hương bộ để nắm giữ những việc đó. Phó Hương bộ có thể thay Hương bộ khi người này vắng mặt.
- Hương bản phụ trách về tài chính và tài sản của xã, chịu trách nhiệm việc điều hành thu chi của ngân sách hàng xã và trông nom những tài sản vật chất của xã. Hương bản chỉ được phép quản lý một số tiền mặt không quá 30 đồng (tiền Đông Dương lúc ấy). Nếu quỹ tiền mặt lớn hơn 30 đồng thì số dư đó phải giao cho các nhà giàu có trong xã giữ hộ, những người này do Hội đồng Kỳ mục xã chỉ định, tối thiểu sáu tháng một lần. ủy ban thường trực Hội đồng Kỳ mục không thể giao phó cùng một lúc vào tay những cặp có quan hệ thân tộc như: Chú - cháu, anh - em ruột, cha - con, ông - cháu...
- Hương kiểm chịu trách nhiệm về trật tự, trị an trong xã (dưới quyền Hương kiểm có Trương tuần và Tuần đinh).
- Hương mục phụ trách việc trông nom, bảo vệ xây đắp và sửa chữa các loại đường nằm trong phạm vi xã như đường bộ, đường sông, đường sắt... Do đó Hương mục là người trực tiếp phụ trách việc tuyển người, điều động nhân công đi làm xâu.
- Hương dịch phụ trách việc thông báo cho toàn thể xã dân biết những quyết định của chính quyền cấp trên, những ngày mở hội làng... Ngoài ra Hương dịch còn chịu trách nhiệm về mặt vệ sinh công cộng của xã, về tình trạng sức khỏe của súc vật trong xã.
Đối với Ngũ Hương, Hội đồng Kỳ mục xã lựa chọn trong số dân đinh của xã, tuổi từ 25 đến 50, chưa hề bị can án, và giới thiệu lên chính quyền cấp phủ hoặc huyện. Riêng chức Hương bản phải lựa chọn trong số những người giàu có. Quan phủ hoặc huyện sẽ là người xét duyệt, bổ sung và sau đó phải báo cáo lên quan tỉnh, quan tỉnh sẽ báo cáo lên công sứ Pháp. Trích…
Ở làng ta, tôi không biết tổ chức Hội đồng kỳ mục chỉ biết lý trưởng và các ông hương (quê ta thường gọi trống không là: chức đến tên) như Lý Sung, kiểm Thâm, bộ Hoàng…
Bộ máy chức sắc làng ta đến năm 1945
Lý trưởng: Nguyễn Đức Sung Thường gọi Lý Sung
Hương bộ: Trần văn Hoàng, thường gọi Bộ Hoàng
Hương kiểm: Nguyễn Đức Thâm, thường gọi KiểmThâm
Hương dịch : Lê ngọc Ký, thường gọi Hương Ký
Chức Hương bản, hương mục tôi không nghe là ai. Có thể do làng ta nhỏ nên những phần việc ấy do bốn vị trên kiêm nhiệm, Ai phụ trách đội tuần đinh, đội này mạnh lắm!
Nhìn vào cơ cấu chỉ chừng đó mà đâu vào đấy, xóm làng yên ả. Tôi kể một chuyện: ngày hè nóng nực, ban trưa khoảng 10 giờ đến 2 giờ chiều, có tiếng thanh la đi từng đường trôn: phèng và cứ đều đều mươi bước lại phèng, mươi bước lại phèng, tiếng phèng nhắc dân đề phòng cháy, tuy đã qui định bắt buộc nấu ăn xong phải tưới nước dập tắt lửa. Thật là chu đáo ! Ai phụ trách “văn xã” mà Tết nào cũng đánh đu, cũng dựng rạp cờ chòi bài tới. Trẻ con theo không khí đó và có nhiều trò chơi riêng nữa nên cũng vui hết cỡ.
Lại một chuyện thú vị giửa các vị chức sắc: Hôm đó quan phủ vào làng làm việc xong, các vị tiễn quan đến cuối làng ta để quan về làng An thơ. Trở lại các vị vào quán mụ Càng
(mệ Chớ) uống nước. Bọn nhỏ chúng tôi chạy theo xem quan, sau đó cũng theo đứng quanh quán. Ông Kiểm (bố Triều) nói “răng lại nói chuyện tui sai trước mặt quan phủ” Một vị khác trả lời: Để cho quan phủ tin rằng có chuyện sai nho nhỏ mà cũng nói ra. Quan cho là ta không giấu giếm cái sai,mà tui cũng chỉ nói là có một buổi trưa không đánh thanh la.Mà mùa rồi làng ta không có cháy chiếc chi, và bửa ni cũng hết mùa nắng. Các vị cười vui vẽ hể hả. Mụ Càng có vẽ thích và đưa trầu mời tíu tít .
Làng xóm thật thanh bình chẳng mấy ai kiện tụng và tù tội.
Lúc đó có người dân nào đi “hối lộ” các chức sắc? Xin các bạn thử tìm? E không!
MỘT HÌNH ẢNH TRONG LỄ THANH MINH TẠI ÂM HỒN LÀNG HƯNG NHƠN |
Tôi nhớ được chừng đó là các vị đương chức, còn những vị có chức danh nhưng làm ở thời kỳ nào tôi không rỏ là các ông: Chánh Cử (có phải chánh Tổng), lý Thuỵ, lý Hà (tôi biết nhiệm kỳ ông Lý Thuỵ đến ông Lý Hà đến ông Lý Sung), bộ Thạnh, hương Ngạn, phó Diệu, phó Học (không rỏ Phó Tổng hay phó Lý) …còn hàng thất bát cửu phẩm khá nhiều: Văn giai hay bá hộ tôi cũng không rỏ chỉ nghe người đân gọi: thất Chiểu, thất Cẩn…bát Kế, bát Bệ…cửu Liên (bố tôi), cửu Thái, cửu Trử, cửu Khảm (anh tôi) Cửu Viển, cửu Ký, cửu Kiến, cửu Liễn còn nữa nhưng tôi không nhớ hết…(Quan lại của triều đình được xếp từ nhất phẩm đến cửu phẩm).
Có hai ông: Ông Phòng (võ) Ông Lại (văn), làm đến chức gì, làm ở đâu tôi không rỏ nhưng có bề thế lắm.
Trở lại nói về bộ máy cai trị : đành rằng thời bây giờ “đẻ ra” nhiều việc hơn, bù lại máy móc thiết bị văn phòng, thời đại vi tính, phương tiện đi lại v. v… hiện đại nhưng sao mà nhiều thế, gấp hằng chục lần! Từ Trung ương đến Huyên nơi nào cũng có bộ máy nghiên cứu cải cách hành chính, càng nghiên cứu bộ máy càng cồng kềnh .
…………………………………………………………
(+)Không rỏ là ông Trần Văn Lý làm Tổng đốc sao lại còn “ăn ruộng” ở làng với vị trí tiên chỉ ?
Nguyễn Thanh Xuân
Các ngành nghề
Làng ta nghề nông thuần tuý 100%. Nông nhàn làm các việc như đan thúng mủng sàng dần…vô thiên khê hàng tre chủ yếu phục vụ cho nghề làm ruộng, nghĩa là tự cung tự cấp không thu nhập thêm ngoài lúa, có nhà neo đơn phải bán lúa để mua, cũng tốn kém lắm!
Có hai nghề tăng thu nhập là nghề bắt cá và nghề mộc
Nghề bắt cá, tôm tép lươn ếch…nghề này chủ yếu ở ngõ trên của xóm thượng thường gọi là “xóm cầu cừa” nhưng đến vụ cũng theo trưa ruộng.
Nghề làm thợ mộc. Do nhu cầu làm nhà gỗ, nên nghề này cũng tăng dần.Tuy vậy số người làm mộc không nhiều: trong nhà tôi có bố, bác Khảm, bác Lãm và tôi cũng học việc, các ông thợ Thỉu, thợ Thái, thợ Ngật,viên Khác,thợ Trử, thợ Thản…Chỉ chừng đó mà làm được tất cả nhà thờ như đình Làng, nhà thờ các Họ và các nhà rường, nhà tạp trong làng, không những làm ở trong làng, còn làm nhiều nơi nhất là nhà rường ở Phước tích, vào làm và tu sửa nhà cửa trong các lăng tẩm của triều đình Huế. Có người đi làm cả năm chỉ về mấy ngày mùa rồi vội vả đi tiếp.
Có thể nói có nhiều nghệ nhân tài ba: cả mộc cả chạm và có trình độ quản lý bao quát những công trình lớn gồm xây la thành trang trí, hoàn thiện.
Nghề làm nón: nghề này có thể xuất hiện sau, nhưng lại được độc tôn cả vùng. Nón Hưng nhơn. Thương hiệu này được các cô gái chú ý nhất, bởi khi đi lấy chồng thế nào cũng “đặt” mua cho được chiếc nón Hưng nhơn. Người làm đẹp nhất là chú Nguyễn Hữu Ngọc (tội cho chú là bị bệnh phong). “Bệnh là của họ, nón là của mình”, các O ấy vừa ngắm nghía vừa trầm trồ với đôi mắt sáng long lanh.
Nghề làm nón thịnh hành nhất là những năm 1944, 45, 46, 47. Những năm làm nón phiên. Làm nón lúc này thực sự là nghề, có thu nhập giúp cho gia đinh nhất là ngày ba tháng tám. Không khí làm nón phiên thật rộn ràng khẩn cấp (cứ phải đúng hẹn vời người thu mua) cho nên mệt mà vui đáo để.Dưới ngọn đèn “cà boong” ngồi vành trong vành ngoài những bảy tám người và phải đến 11 giờ đêm mới nghĩ. Nghề nón có nhiều công đoạn nên thu hút nhiều lao động không những người trong làng mà còn cả những người làng khác. Mua lá nón (lá trắng, lá xanh) mua mung (lồ ô), mua đoác…mấy loại này phải mua ở miền rừng về. Người làm khuôn nón đẹp nhất, bền nhất phải nói đến chú Ngọc (nói ở trên). Như thế nào là khuôn nón đẹp. Vấn đề này phải có một bài dài, dài…
Khi đã làm nón phiên, để có năng suất cao (nghĩa là một người một tuần làm được mấy chiếc), môt vấn đề xuất hiện là chuyên môn hoá. Khác với trước là một người làm tất mấy công đoạn như: Ra (chẻ) mung, phơi đạp lá, bóc lá, ủi lá, bắc vành, xây, chằm, nức, kết…Bây giờ tuỳ từng gia đình mà thuê, làm cho hợp lý. Tôi thấy có hai thứ mà hầu hết gia đình nào cũng tự làm nữa mà mua lá khô ở chợ, đặt bắc vành. Trong nhà cũng chuyên môn hoá, người chuyên bóc, ủi, lựa lá, người chuyên xây, người chuyên chằm và người chuyên nức kết. Lại một chuyên nữa là người có khả năng bắc vành thì bỏ hẳn làm nón chuyển sang chuyên bắc vành. Nhiều người bắc vành (giỏi là phải đàn ông),nhưng nhanh nhất đẹp nhất phải là chú Nguyễn Đức Cược. Bình quân là 25 bộ /ngày có ngày lên 28 bộ. Mỗi bộ 17 vành. Tính ra phải vót buộc…17 x 25 = 435 cái vành cho tròn cho đều. Bình thường là 5 đến 6 bộ. Cũng có người chạy đua bắt chước chú Cược nhưng cũng chỉ đạt được 13,14 thôi.
Tò mò hỏi (bởi tôi cũng là tay làm khuôn, bắc vành chằm nón thuộc loại “trên khá”) chú thủng thẳng trao đổi như bày vẻ như truyền kinh nghiệm, xem ra chú chẳng sợ lộ bí mật về nghề. Để làm được mau phải lo từ khi nhắm mua cây mung. Không nên mua một cây to để bắc vành cho cả bộ. Cây to dùng những vành bên dưới, cây nhỏ giao lóng bắc vành trên. Ra vành cũng nhắm cho từng cỡ, như là phân loại cho từng vành. Chạc đoác cũng rứa. Ít nhất cũng có 3 lọai, chạc to vấn vành dưới, vừa vành giữa, nhỏ mỏng vấn vành trên. Nói thì không hết, làm nhiều và để ý rồi thành quen thành nhanh. Chú cười hiền lành…
Quanh vùng thường nói: Làng Hưng nhơn không đi làm thuê bởi họ nhiều ruộng lại là ruộng tốt. Nói thế không đúng mà xem ra cũng đúng. Tôi nhớ trước đây đến ngày mùa, dân các làng khác đổ về Hưng nhơn để gặt,có thể nói là đông như ngày hội sau đó mới về gặt lúa nhà mình thế nhưng người Hưng nhơn gặt xong cũng không về các làng khác để gặt. Đến bây giờ cũng rứa ! Xong mùa là “nhậu”, mặc dầu chưa dư dật, như không biết mình nghèo.
Nguyễn Thanh Xuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét