Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012
Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012
QUÊ TÔI - ( PHONG TRẦN. Hưng Nhơn-Hải Hoà- HL-QT)
Thoáng quê Tôi là trưa chiều oi ả
Nắng vươn mình qua những rặng tre xanh
Con đường làng cong mình như lơi lả
Cánh đồng làng trải thảm một màu xanh
***
Thấp thoáng xa xa dáng Mẹ Tôi yêu dấu
Tảo tần sớm hôm trên đồng lúa xanh tươi !
Hình bóng Cha lúc hoàng hôn buông xuống
Vẫn miệt mài với đồng án ruộng trưa !!
***
Mỗi lần xa quê thêm một lần nhung nhớ !!
Tôi lại về trong những sớm bình yên !
Nhẹ nhàng ơi cho Tôi tình thương nhớ ,..
Chốn thanh bình chỉ mãi chốn Quê hương !!
Phong Trần
http://www.facebook.com/phong.tran.180
THIỆP MỜI DỰ LỄ KHÁNH THÀNH LĂNG MỘ NGÀI THƯỢNG TIỀN HIỀN KHAI CANH HỌ LÊ VĂN ( LÀNG HƯNG NHƠN- HẢI HOÀ-HẢI LĂNG- QUẢNG TRỊ)
LỊCH SỬ NGÀI
THƯỢNG TIỀN HIỀN KHAI CANH
Vào
thời vua Lê Thánh Tông 1481 từ rừng Châu Hoan Nghệ Tĩnh, Ngài cùng anh ruột
mình đã từ giã quê hương ruột thịt tiến vào Nam khai hoang lập ấp.
Đi
mãi, đi mãi mới dừng chân tại vùng Câu Hoan đất hứa,
Một
đồi cát, một vùng lau sậy bạt ngàn,một thiên nhiên khắc nghiệt,nhưng với ý chí
kiên cường dũng mãnh, Ngài đã biến nơi đây thành ruộng lúa phì nhiêu
Năm
1492 lại một lần nữa chia tay với anh mình đi xa hơn một bước, Ngài đặt chân
đầu tiên tại vùng đất trũng này và đặt tên là Vĩnh Hưng, cũng nơi đây Ngài đã
sống và vĩnh biệt thiên thu
Mãi
về sau Vĩnh Hưng được đổi thành Hưng Nhơn ngày nay
Do
những công lao to lớn,Ngài đã được Vua Lê ban tặng” TIỀN KHAI CANH SẮC TẶNG
DỰC BẢO TRUNG HƯNG LINH PHÒ”.
Con
cháu ngày nay nhớ ơn Ngài, dựng bia xây mộ, cẩn kính tôn thờ
BỔN TỘC LÊ VĂN ĐỆ NHẤT
BỔN TỘC LÊ VĂN ĐỆ NHẤT
Lượt bút
Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012
Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2012
MÙA GẶT - thơ VÕ THỊ NHƯ MAI
Bài viết đăng trên trang
http://vovanhoaqt.vnweblogs.com/post/10775/373631
Thơ đề ảnh của NGUYỄN NHƯ KHOA
CHƯA VỀ THĂM RỐN LŨ
HƯNG NHƠN ĐÃ VÀO MÙA
NÔNG NGHIỆP CƠ GIỚI HOÁ
ĐẤT TRỜI CŨNG CHÀO THUA !
MÙA GẶT
Em gửi đến tôi quê hương
Qua bức tranh Hưng Nhơn mùa gặt
Vạt nắng ươm vàng thóc mẩy căng óng mướt
Chẽn lúa trĩu oằn quyện má rám, mồ hôi
Tôi yêu quê mình thuở chị hát đưa nôi
Đất nước ru tôi khúc ca người nông dân chân chất
Chiền chiện mắt nâu giọng líu lo rót mật
Ông cắm nhánh mạ xuống bùn bà nhóm lửa thổi rơm
Đất nước trong tôi mỗi ngày một lớn hơn
Nỗi nhớ niềm thương bay cao theo cánh diều ngược gió
Bức tranh ngày mùa vẽ tuổi thơ tôi dải yếm buồm mây
Hồn quê thanh tao, ống kính mỏng nghĩa dày
Những hạt gạo đi muôn nẻo khắp trời
Có nhớ bàn tay của người gặt hái?
Nước Việt của tôi trải qua bao gian nan khổ ải
Mới dâng được cho đời khung cảnh bình yên
Thôn xóm tôi dịu hiền
Nửa đêm thức cùng trăng lao xao đập lúa
Cho tôi được mảnh mai áo lụa
Yêu thương và tự hào
Quê tôi
Việt Nam
Võ Thị Như Mai14/9/2011
Em gửi đến tôi quê hương
Qua bức tranh Hưng Nhơn mùa gặt
Vạt nắng ươm vàng thóc mẩy căng óng mướt
Chẽn lúa trĩu oằn quyện má rám, mồ hôi
Tôi yêu quê mình thuở chị hát đưa nôi
Đất nước ru tôi khúc ca người nông dân chân chất
Chiền chiện mắt nâu giọng líu lo rót mật
Ông cắm nhánh mạ xuống bùn bà nhóm lửa thổi rơm
Đất nước trong tôi mỗi ngày một lớn hơn
Nỗi nhớ niềm thương bay cao theo cánh diều ngược gió
Bức tranh ngày mùa vẽ tuổi thơ tôi dải yếm buồm mây
Hồn quê thanh tao, ống kính mỏng nghĩa dày
Những hạt gạo đi muôn nẻo khắp trời
Có nhớ bàn tay của người gặt hái?
Nước Việt của tôi trải qua bao gian nan khổ ải
Mới dâng được cho đời khung cảnh bình yên
Thôn xóm tôi dịu hiền
Nửa đêm thức cùng trăng lao xao đập lúa
Cho tôi được mảnh mai áo lụa
Yêu thương và tự hào
Quê tôi
Việt Nam
Võ Thị Như Mai14/9/2011
Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012
Hai làng An Thơ và Hưng Nhơn
Trong Ô châu cận lục, huyện Hải lăng
có 49 xã, ghi từ An thư (An Thơ), Vĩnh Hưng (Hưng Nhơn) Văn quĩ,Câu
nhi…đến xã thứ 49 là Dâu Kinh. Có phải Dâu Kinh bây giờ là Phú Kinh?.
Nếu Dâu Kinh là Phú Kinh sao không ghi vào tổng An Thơ. Thời gian nào
thì Phú Kinh vào Tổng An Thơ? (sẽ tìm hiểu sau).
An Thơ là một làng đồng thời dùng
làm tên Tổng, qua đó ta có thể biết ngay đó là một làng lớn.
MỘT GÓC CỦA LÀNG AN THƠ NGÀY NAY |
Tuổi nhỏ của tôi, nhờ ở gần làng An
Thơ (chỉ cách 200m) nên được hưởng những “kỳ quan” của An Thơ như những
cây cừa cổ thụ có bóng mát xanh rờn, có ghế xi măng láng bóng, ngồi
ngắm ra dòng sông chảy xiết trong veo. Đoạn đó, bên kia là Cồn Nổi nhô
ra tạo hình sông eo lại chừng mươi lăm mét mà mặt sông phía trên Bến
Ngã Ba (Hưng Nhơn) rộng mênh mông. Có lẽ sợ xói lở nên làng đắp kè
bằng xi măng vĩnh cữu. Mức nước nơi
biên giới giữa hai làng chênh lệch cao độ chừng trên dưới 20,
dòng nước chảy như thác tạo ra dòng xoáy cả trên mặt nước và cả
chiều sâu, người ta gọi là Vực Nước Lụn (độ sâu không biết, bởi không
ai dám lặn xuống vì cho rằng dưới đó có những con vật dử, làm chết
người). Dưới vực sâu đó năm 1947,
người ta bắt được con Trẹng (như ba ba) dễ chừng trên 100 kg. Đặt tấm
ván trên mai trẹng, hai người đàn ông đứng trên nó chạy băng băng.
Phía sau những cây cừa cổ thụ là ngôi
chùa lớn, có hồ sen, những bông sen trắng đẹp những lá dừa đội lên
đầu mát rượi, tôi và Nguyễn Đức Chiêu mò xuống trộm hoa và gương sen,
may quá ông từ bắt được khi chúng tôi chưa bẻ bông nào, nên được tha
và tôi còn nói lí nhí là thích lá sen đội đầu ông tin và cho hai
đứa hai lá. Thật là hú vía!
Ở bờ kè đá, nước trong đến mức nhìn
được những con cá bống lượn lờ giữa các viên đá. Móc mồi câu, chúng
tôi rê mồi tới tận miệng cá và cứ thế rê đến lúc nó cắn mồi, thấy
chắc chắn mới giật. Đã giật là chắc
Khi tôi 8 tuổi học trường Tổng, thầy
tổ chức thi bơi lội. Địa điểm bơi là từ Bến Nước Lụn bên này sang
dưới chân Cồn Nổi. Bơi cũng được lặn cũng được, miễn là sang được
bên kia và về lại bên này là đậu. Tôi được cấp “bằng bơi lôi”. Bố
làm cho một khung gỗ treo lên tường. Ai đến chơi mẹ tôi cũng khoe và
họ gọi tôi là “cậu khoá”.
Tôi bắt đầu biết thưởng thức cái đẹp
của vị trí này là vào mùa gặt tháng tư năm1946. Số là chiều đó tôi
đang ngồi câu cá thì Đoàn Văn công Ty Thông tin tuyên truyền tỉnh Quảng
Trị, dừng lại ngồi ghề đá và bờ kè để hóng mát dưới bóng các cây
cừa cổ thụ. Tôi nghe họ reo lên thú vị, vừa vỗ tay vừa chỉ chỉ
xuống mấy chiếc thuyền đang chèo dưới sông. Tôi nhìn thấy bốn, năm
chiếc thuyền chở lúa chở đất (đất đôộc đôộc) từ dưới vực nước lụn
đi lên. Mỗi thuyền từ 8 đến 10 tay chèo khoát nước tung bọt trắng xoá
với những cánh tay rắn chắc, những mái chèo đều đặn theo nhịp hò, khoan
hò hụi của người tát nước để cố vượt lên dòng nước khắc nghiệt.
Đò qua khỏi dòng nước xiết, các mái chèo thả lỏng, chỉ còn người lái
loáy ngoáy cầm chừng. Một anh trong Đoàn hích vào tôi: em có thấy
mấy cô gái má hồng, mắt sáng mồ hôi nhể nhại đang ngoảnh nhìn chúng
ta, thấy không, thấy không. Anh ấy nhộn thật, tôi cũng vui lây, các anh
chị vui vẻ lạ thường. Phần tôi thì cảnh này ngày nào chẳng thấy,
nhưng nào biết cái đẹp ở góc độ nào.
Năm 1947
phía VNCH về đóng đồn ở khu miếu Ngài Võ Địch Đại tướng quân
và cả khu vực chùa đền chân cầu Vực Nước Lụn. Chúng chặt hết cây
cối của khu miếu và chặt phá cả những cây cừa cổ thụ làm cho cảnh
quan vùng đó mất cả vẻ thâm nghiêm và thơ mộng.
Miếu VÕ ĐỊCH ĐẠI TƯỚNG QUÂN NGÀY NAY , nơi giáp ranh giữa hai Làng Hưng Nhơn và An Thơ |
Sau này mới ý thức rằng giữa các
làng có ranh giới. Giữa Hưng Nhơn
và An Thơ là đất liền từ trong khu dân cư ra tận Càng khoảng 5 km.
Những năm sau này tôi mới chú ý
thấy ở trong này một cọc mốc xi măng (sẽ nói rỏ sau), ngoài
Càng một viên đá tự nhiên không ghi chữ, lại nữa ở cồn (nơi chôn
người chết) nếu không đọc chữ ở bia thì không biết ngôi mộ ấy là
người làng trên hay làng dưới. Tôi nghỉ ranh giới giờ đây là trí nhớ
suốt 5 km chiều dài.
Do có đi thực tế và quan sát rồi suy
ngẫm và đặt câu hỏi; Tại sao Hưng Nhơn giáp An Thơ mà trên cọc mốc và
nhiều bài viết khác lại dùng giáp Mĩ chánh. Nghiên cứu một số tài
liệu tôi biết Mĩ Chánh là thôn hay phường của làng An Thơ, dĩ nhiên chưa
phải là làng (là đơn vị hành chánh). Chính trong Ô châu Cận lục không
có làng Mĩ Chánh.
Ngoài Càng thì giáp ruộng Mĩ Chánh,
trong khu dân cư cọc mốc mà Gia Long
năm thứ X cũng ghi một phía là Vĩnh Hưng xã và phía kia ghi Mĩ Chánh
thôn. Hai xã giáp nhau thì phải ghi bên này Vĩnh Hưng xã, bên kia An Thơ
xã mới đúng. (Vĩnh Hưng đến đời vua Tự Đức mới đổi là Hưng Nhơn).
Mĩ chánh có tài liệu cho rằng đâ
được tách trước 1792 lúc Hoàng đế
Quang Trung còn sống, bởi Mĩ Chánh có người con gái đẹp Nguyễn Thị
Bích, thứ phi của Quang Trung nên được Triều đình cho tách để lập một
làng (Vấn đề tồn nghi)
Xin trích một văn bản :
Bà Nguyễn Thị Bích (cuối Tk 18 đầu Tk
19)
Người làng
Mỹ Chánh- An Thơ là thứ phi- Vợ của Hoàng đế Quang Trung
Theo tông phổ
dòng họ Nguyễn viết bằng chữ Hán ở làng Mỹ Chánh, huyện Hải lăng
tỉnh Quảng trị thì cô con gái út của ông Nguyễn Văn Cẩn (1712-1771)
và bà Nguyễn Thị Ai (1714-1772).Ông giữ một chức quan nhỏ vào mạt kỳ
thời chúa Nguyễn ở Phú Xuân, đã gả cho vua Quang Trung.
Nguyên văn
tông phổ chữ Hán ghi:
“Nguyễn
Thị Bích giá vu Quang Trung Hoàng đế, bổn thôn xuất đinh, tịch tự thử
thuỷ tốt vu cửu nguyệt, sơ thập nhật, mộ tại Vĩnh An thôn, gò Thỏ
xứ”.
Tài liệu cũng cho biết vào đầu thế kĩ thứ 18, dân làng An Thơ lên lập nghiệp, sinh sống ở Mỹ Chánh, quá trình tụ cư diễn ra nhanh chóng nhưng chưa được chính quyền cho xác lập là một làng chính thức; Cho đến thời Tây Sơn, khi làng có người con gái xinh đẹp gả cho vua Quang Trung, từ đó Mỹ Chánh mới được xuất đinh, xuất tịch.
Tài liệu cũng cho biết vào đầu thế kĩ thứ 18, dân làng An Thơ lên lập nghiệp, sinh sống ở Mỹ Chánh, quá trình tụ cư diễn ra nhanh chóng nhưng chưa được chính quyền cho xác lập là một làng chính thức; Cho đến thời Tây Sơn, khi làng có người con gái xinh đẹp gả cho vua Quang Trung, từ đó Mỹ Chánh mới được xuất đinh, xuất tịch.
Vấn đề tồn nghi là: theo Quang Trung (nói
tắt) thi đã được tách vào những năm 1792 (Vua Quang Trung còn sống),
nhưng theo cọc mốc (Gia long) thì đến năm 1811 Mĩ chánh vẫn là một
thôn của An Thơ. Có ý kiến nghi ngờ rằng Gia long không chấp nhận chỉ
dụ của Quang Trung trước đấy?.
Chưa biết chính xác tách năm nào, nhưng căn cứ vào Quốc
Triều Hương Khoa lục của Đại học sĩ Thượng Thư Cao Xuân Dục thi chắc
chắn được tách trước năm 1834 bởi
ông Nguyễn Văn Sĩ người xã Mĩ Chánh thi đổ Tiến sĩ khoa Giáp Ngọ, Minh
Mạng thứ 15 (1834) làm quan đến chức Ngự sử.
Email: nhuxuan29@gmail.com
Email: nhuxuan29@gmail.com
Xin kèm theo đây sĩ phu hai bờ Ô lâu để tham
khảo;
Hai bờ Ô lâu (Sao lục trong Quốc triều Hương khoa
lục)
Sĩ phu triều Nguyễn ( Gia Long-
Khải Định)
TT
|
Họ và tên
|
Nămđỗ
|
Triều vua
|
Chức vụ
|
|
An thơ
|
|||||
1
|
Ng: Đức
Hoat
|
1828
|
M.mạng
|
Thượng
Thư Bộ Hộ
|
|
2
|
Ng: ĐứcHoa
|
1835
|
M.mạng
|
Tuần
Phủ Khánh hoà
|
|
3
|
Ng: đức
Tư
|
1847
|
Thiệu
trị
|
Tri phủ
|
|
4
|
Ng: quang
Huy
|
1846
|
Thiệu
trị
|
Biên tu
Nội các
|
|
5
|
Ng: Di
|
1891
|
Th. Thái
|
Không ghi
tên quan trường
|
|
6
|
Ng: Đức
Đàn
|
1906
|
Th. Thái
|
Đậu lúc
27 tuổi, Tri huyện
|
|
Hưng nhơn
|
|||||
1
|
Ng: Đức
Trứ
|
1840
|
M.mạng
|
Bố
chánh
|
|
2
|
Ng: Đức
Giản
|
1852
|
Tự
đứcị
|
Viên
ngoại lang
|
|
3
|
Ng: Đức
Dĩnh
|
1858
|
Tự đức
|
Tri phủ
|
|
Văn quĩ
|
|||||
1
|
Ng: Trần
Vịnh
|
1878
|
Tự đức
|
Tri phủ
|
|
Câu nhi
|
|||||
1
|
Ng:TăngDoãn
|
1847
|
Thiệu
trị
|
Thượng
thư Bộ Lại
|
|
2
|
Ng: tăng
Ý
|
1873
|
Tự đức
|
Phủ
thừa
|
|
Hà lộc
|
|||||
1
|
Lê Toại
|
1888
|
Đ.khánh
|
Không ghi
tên quan trường
|
|
Lương Điền
|
|||||
1
|
Lê Văn
Khôi
|
1918
|
Kh.định
|
Đậu 27
tuổi,không ghi chức
|
|
Mĩ chánh
|
|||||
1
|
Ng: Văn
Sĩ
|
1834
|
M.mạng
|
Ngự sử
|
|
2
|
Ng: Văn
Hiển
|
1846
|
Thiệu
trị
|
Tri phủ
sứ Phú yên
|
|
3
|
Ng: Văn
Đỉnh
|
1855
|
Tự đức
|
Không ghi
tên quan trường
|
|
4
|
Ng: Văn
Sách
|
1855
|
Tự đức
|
Khg ghi
chức quan trường
|
|
5
|
Hồ Tiểu
Viên
|
1906
|
Thh thái
|
Huấn
đạo
|
|
6
|
Ng: đức
Thố
|
1906
|
Thh thái
|
Tú tài
lúc 29 tuổi, bát phẩm
|
|
Mĩ Xuyên
|
|||||
1
|
Lê Đô
Lương
|
1841
|
Thiệu
trị
|
Không ghi
tên quan trường
|
|
2
|
Lê Huyên
|
1909
|
Duy tân
|
Huấn
đạo
|
|
Lương Mai
|
|||||
1
|
Ng;
Tuyển
|
1847
|
Thiệu
trị
|
Tri phủ
|
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)