Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

TẦM VÓC LÀNG HƯNG NHƠN - Nguyễn Thanh Xuân

“TẦM VÓC LÀNG HƯNG NHƠN”
  
                                1, Vóc dáng địa lý
                                2, Vóc dáng tâm hồn
    Tiểu dẫn
      Tôi năm nay 86 tuổi, xa quê hơn nửa đời người và đi nhiều nơi, đến đâu tôi cũng khoe Làng Tôi là một trong những làng đẹp nhất bởi đường ngõ thẳng băng, gọn gàng như bức tranh. Tôi nhớ vào Tết 1956-1957  khi đang học ở trường Trung cấp Nông lâm Trung ương, Hà nội, trên tờ croki khổ 60 x 100 cm, tôi đã vẽ làng ta (khiêm tốn nói rằng) gần đúng 100% tỷ lệ cho từng ngõ, từng nhà…trong đó ghi tên chủ nhà và trong nhà có mấy người, Thú thật ngõ xóm ông Trần Công Dạ, Trần Công Hành (cầu Cừa) tôi chỉ nhớ khoảng 70%. Cái may những năm đó tôi là Uỷ viên hội đồng nhân dân và Trưởng ban Thông tin tuyên truyền xã Hải Phong, nhờ thế mà tôi đi sâu, đi nhiều. Xã Hải Phong gồm 6 làng: Hà lỗ, Câu nhi, Văn quỹ, Hưng nhơn, An thơ và Phú kinh (hai xã Hải hoà và Hải tân gộp lại), Đoàn tập kết ra Bắc cuối tháng 7-1954 là Đoàn Hải phong do Nguyễn Ngôn người Hà lỗ- Trưởng đoàn), Cái chính là Làng gọn dễ thấy dễ nhớ. Tiếc rằng năm tháng di chuyển nhiều nên thất lạc.


1, Vóc dáng địa lý
 
      Xưa nay hễ đến vùng đất mới người ta thường chọn : một là sườn đồi núi, hai là ven sông. Ông cha ta chọn ven sông: sông Ô lâu. Nói là ở ven sông nhưng làng ta lại không có sông (có, nhưng chỉ khoảng trên dưới 80 m), có người bảo vì đến sau  Sau trước chưa là vấn đề. Tôi nói đến cùng thời. Đến sau, sao lại có nhiều ruộng canh tác đến vậy. Bình quân đầu người có khi nhiều hơn các làng khác. Chuyện đến sau trước ta sẽ tìm hiểu thêm. Lúc viết bài này tôi chưa tìm được cứ liệu.


    Ít nhất cũng phải có một hoặc nhiều cuộc họp giửa những người làng giáp ranh nhau để giăng dây đóng cọc: Hưng Nhơn - Văn Quỹ - Hoà Viện và Hưng Nhơn –An Thơ
     Làng ta được xác định: Đông giáp An Thơ, tây giáp Văn Quỹ, nam giáp Hoà Viện và mấy chục mét của sông Ô Lâu, bắc là đồng ruộng của làng ta.
  
Nhà thờ Lục tộc làng 
Tuổi trẻ xây dựng quê hương

      Đứng trước vị trí này, các đại gia làng ta với tâm hồn phong phú, giàu có về kiến thức thiết kế, kiến trúc và chắc có nhiều kinh nghiệm nên đã chọn:
  
       Khuôn viên làng hình chữ nhật khoảng (300x1000)m, theo hướng: chiều dọc Đông Tây, chiều ngang Nam Bắc. Trên cơ cấu này các nhà phải xây theo hướng Nam (lấy vợ da ngà làm nhà hướng nam). Tôi nghỉ vóc dáng Làng là địa lý nhân tạo không theo địa lý tự nhiên. Thật là một suy nghỉ táo bạo và độc đáo. (Theo suy luận của tôi NTX)

     Diện tích khuôn viên ước bằng 1/10 ruộng canh tác-- diện tich ở / diện tích canh tác tỉ số 1/9, có nghĩa là một làm chín. Thời gian đã xác định con số này là hợp lý. Chắc chắn ruộng sau Rôộc là đất dành cho dân cư khi con cháu đông lên.
    Cái tầm nhìn như vậy liệu các chuyên gia, kĩ sư trưởng, kiến trúc sư ở thế kỷ 21 đã mấy ai làm được?

    Đi sâu vào thực tế:
    Phía bắc tuy là ruộng của mình, nhưng bị mưa lũ, gió bão đe doạ nên đã đắp con đường Bạng cao rộng trồng cây làm bức tường luỹ che chắn (chọn trồng cây tre là ngà và chủ yếu là cây mưng) tre là ngà cây to cao nhiều gai, rậm, chẳng ai dám chui vào bụi là ngà. Cây mưng chịu nước chịu hạn tốt, rễ to bám rộng, sâu, cành chắc dẻo, lá rậm quanh năm không những giao cho nó  nhiệm vụ bảo vệ an toàn cho dân mà nó còn cung cấp thức ăn thú vị mỗi khi ra lộc non. Tôi còn nhớ câu ca dao quê ta: Đói nghèo rau má rau mưng / Chồng ăn thiếp nhịn xin đừng xa nhau.

     Phía nam giáp Làng Hoà Viện  (chỉ có hai xóm của một làng Thừa Thiên Huế giáp với hai làng của Quảng Trị, sẽ tìm hiểu sau) các vị đã cho đào một rãnh (hói không phải hói, mương chẳng phải mương) vì không lúc nào có nước, chiều rộng trên dưới một mét chắc là để xác định ranh giới.
Chiều trên hói Tiền giang 

      Có nguồn tin nói rằng trước kia ranh giới là một con hói đào sâu, tạo một dãy đất dàì trông như ngọn bút và tiếp đó là một vũng rộng trông như nghiên mực. Khi tôi lớn lên chỉ thấy luỹ tre và cây bụi, cũng như đường Bạng nhưng không rộng và chắc như đường Bạng. Song song với nó, đào một con hói rộng trên dưới 10 mét chạy dọc từ sông Ô Lâu lên đến giáp ranh giới làng Văn Quỹ rồi chạy thẳng ra vừa tưới nước cho đồng ruộng vừa làm ranh giới giửa hai làng. Đất đào hói đem đắp con đường cái .  Giữa con đường cái và bờ hói trồng một luỹ tre rợp bóng quanh năm. Dân làng lập từng bến để giặt giũ sinh hoạt. Có nước chảy quanh làng cây cối tốt tươi, khí hậu ôn hoà.

    Phía đông đất liền với làng An Thơ, lúc đầu e cũng chỉ đóng cọc phân ranh giới, nhưng khi ngài em thứ ba (thành lập họ Nguyễn: Đức, Hữu, Như có ba anh em ruột) tham gia chinh chiến trở về, triều đình phong sắc tặngVõ Địch Đại Tướng Quân và dụ cho Làng lập miếu thờ, hằng năm đến ngày 16 tháng 6 Âm lịch làng tổ chức cúng giỗ. Tuân lệnh Triều đình, Làng lập miếu thờ ở cạnh biên giới làng An Thơ và đặt tên miếu là Tả Thần Hoàng, có nghĩa là ông thần trấn thủ đất ở phía tay trái. Nhân dân thường gọi là miếu Ông. Thế là “lãnh địa” làng Hưng Nhơn chắc chắn biết chừng nào!
Phụ nữ Hưng Nhơn trong một ngày làm vệ sinh đường làng
    Khu vực dân cư được chia làm ba xóm: giáp với Văn Quỹ là xóm Thượng đến Trung đến Hạ. À lại là chuyện lạ xuất hiện: dòng nước chảy từ hạ lên thượng. Có cái hay là bình độ đất phẳng như tờ giấy nên sáng nước từ sông Ô Lâu chảy vào đồng ruộng, chiều nước chảy từ đồng ruộng ra sông. Phong thuỷ ấy tạo cho tâm hồn người dân sống ôn hoà, thuần phác, thuỷ chung.
    Chia ba xóm, mỗi xóm có một đường kiệt (trôn) rộng chạy thẳng ra đồng ruộng và từ đầu làng đến cuối làng cứ cách nhau 25-30m có đường kiệt rộng chừng 3m, hai bên bố tri hai dãy nhà, ngõ thông ra đường kiệt. Mai đây làm biển ngõ, nhà thì “ba mươi giây” là xong.

     Viên đá bí tích ở Càng. Tôi chỉ nhìn được một lần vào ngày giỗ Bà năm 2002 khi cùng đoàn bô lão làng ra cúng. Một viên đá, một bí sử. Ai biết xin viết bài để nhân dân ta đời đời nhớ ơn.

    Tôi lại chỉ được một lần lên Thượng Nguyên cùng các vị bô lão và cán bộ, nhân dân lên cúng đầu năm vào tết Tân Tỵ- 2001. Vùng đất này có lẽ lập sau, nhằm trợ giúp cho ngày ba tháng tám. Phải gian khổ lắm mới tạo được vùng đất này, bởi ở vùng độc canh lúa, ắt phải mang gạo lên rừng đổi lấy củ khoai củ sắn.
Rộn ràng trong ngày màu
         Nói vóc dáng làng mà không đề cập đầy đủ về Cái Bến Ngã Ba là một thiếu sót lớn. Bến Ngã Ba, cái bến huyền thoại, bởi đó là nơi hội tụ sắc thái tươi mát của cả Làng. Ngày nào cũng như ngày nào luôn nhộn nhịp trò chuyện râm ran, vui vẻ. Thực thế, ai đang có chuyện lăn tăn gì đó, hễ đến bến, cái buồn tiêu tan, tâm hồn được hòa quyện với cái vẽ đẹp thuần khiết của trời mây sông nước tự lúc nào. Bến Ngã Ba, bến thiên nhiên mà như nhân tạo. Đáy cát trắng tinh không một tí bùn, chỗ cạn chỗ sâu: trẻ con vừa tắm vừa vọc cát, con trai đứng nước ngang hông khoe cái bộ ngực nở nang và đôi cánh tay hộ pháp; con gái cố nhấn chìm gần đến cổ thỉnh thoảng nhảy phóc lên cho tia nước phóng ánh hào quang. Cái gì đó khiến người con trai kịp thấy bạn mình quảy đôi thùng gánh nước, lẹ làng vào bờ và đôi tao gióng gọn gàng trên tay với một nụ cười rạng rỡ. Có những “chiếc” tàu ngầm mà cô gái nào đó la lên “chân mình như có bàn tay ai nhầm”… Bến Ngã Ba sáng từng đoàn người gánh nước giặt giũ. Bến Ngã Ba , trưa trâu mẹp; chiều đón khách theo đò dọc vào Huế…Chuyện Bến Ngã Ba làng ta e phải có hằng trăm bài viết cũng chưa đề cập hết. Với tôi nó là huyền thoại mãi mãi là huyền thoại.
            Xin có lời đề nghị các bạn tham gia viết nhiều về vóc dáng Làng. Tôi tạm dừng ở đây. Có chỗ nào chưa đúng cho ý kiến, xin chân thành cám ơn

Như là bức thư ngỏ:
    Đề nghị các bạn viết các phong tục tập quán, những lễ hội cỗ truyền, những ngành nghề và các trò chơi con trẻ…
    Những năm yên bình trước 1945 chúng tôi thường chơi:
   -Đá banh bưởi, Ná bắn chim, Thả diều, Nạp vụ, Đánh căng cù Đánh đáo, Đánh bi, Đá kiện, đá hai chân, Trốn tìm, Đánh giặc giả, đập chúng (đầu trâu)
    Con gái thì: Nhảy chồng chán, Ô ăn quan, Kẹc khắc, Vụ quay tôm cua, Thẻ ăn 1 ăn 10…
    Tâp thể thì: Đua thuyền (gọi là bơi trải), đua ghe, Đánh bài tới - bài chòi, Đánh cờ chòi, Cờ quân, Cờ kết, Tổ tôm
    Các bài ca dao hò vè, nói lối…rất phong phú.
Làng Lễ : Lên cây nêu ngày 30 đến mồng 7 hạ nêu (Ý nghĩa của cây nêu), Làng có năm tổ chức đánh đu, những năm 1943-1944 có đóng kịch, múa (do Nguyễn Đức Phụng (Trịnh) đạo diễn và chỉ huy)
     Công giáo có kiệu
     Các ngành nghề: Làm ruộng (gian khổ nghề ruộng—khác xa bây giờ), nghề thợ mộc, nghề làm nón, tơi, nghề bắt cá, nghề buôn nón lá vào Huế .

     Chúng ta ôn lại những gì đã có trước đây để thấy nét đẹp truyền thống mà ông cha chúng ta đã hun đúc, bởi chúng rất hay, rất khó mà hấp dẫn. rất bổ ich cho rèn luyện thể chất, thư giản.

1 nhận xét:

  1. một bài viết giá trị về nơi chốn quê nhà ,để các thế hệ sau hiểu và tự hào....!

    Trả lờiXóa