Kính gửi quý bà con dân làng đang sinh sống trong mà ngoài địa phương, theo như bài thư ngỏ trước đây của BĐH Thôn Hưng Nhơn cho việc phục dựng và xây mới địa điểm bến Ngã 3 Làng Hưng Nhơn. Đến nay đã được 5 tháng sau ngày khởi động BĐH Thôn đã tiến hành một số bước để đi đến tổ chức thi công công trình.
Hiện nay, BĐH Thôn đã cho giải phóng mặt bằng bến ngã Ba (Bến Đá) Làng Hưng Nhơn để kêu gọi con dân của Làng đóng góp thêm kinh phí để phục dựng, xây mới lại Bến, nhằm bảo tồn và phục dựng một địa chỉ đã gắn liền với bao thế hệ người dân Làng Hưng Nhơn.
Mọi thong tin có liên quan và tham gia đóng góp ủng hộ xin gọi về:
Nguyễn Như Khoa: ĐT: 0915 15 2039 để được biết thêm thông tin.
Tài khoản: Nguyễn Như Khoa - NHNN chi nhánh Hải Lăng: Số tk: 3903205174629
Bến
Ngã Ba làng Hưng Nhơn
Ông: Nguyễn Thanh Xuân - Hà Nội
Sông Ô lâu,
nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Quảng trị – Thừa thiên Huế hiền hoà nước
trong leo lẻo, là nguồn nước không thể thiếu trong sinh hoat hằng ngày
của người dân. Với các làng hầu hết bến trực tiếp với sông suốt cả
chiều dài vùng dân cư, còn làng Hưng nhơn Ô lâu chỉ ghé vào khoảng
chưa đầy trăm mét. Tả hữu ngạn Ô lâu có nhiều nhánh rẽ nhưng chỉ có
con hói nhỏ Ô lâu –Hoà Viện- Hưng nhơn được làm thành cái bến và có
tên là Bến Ngã Ba. May quá nó là tên bến duy nhất mà cả hai bờ Nam Bắc Quảng trị Thừa
Thiên Huế có được.
Ở bờ Bắc
là vùng đất trũng, bùn lầy lắm phèn không thể đào giếng lấy nước
như ở bờ Nam .
Nhu cầu về nước để sinh hoạt của người dân chủ yếu dựa vào nguồn
nước sông Ô lâu. Con hói chạy dọc làng là để đưa nước ra tưới đồng
ruộng, dòng nước quanh năm đục ngầu chỉ có thể dùng để rửa ráy qua
loa vào lúc sáng sớm. Trâu cũng không mẹp được bởi vừa cạn vừa
nóng.
Đối với
Hưng nhơn bến Ngã Ba là “con cưng” của làng. Ta thử hình dung: hằng
trăm hộ dân, hằng nghìn nhân khẩu mà chỉ có một bến. Chưa mờ sáng
đã có người gánh nước, gánh nước và giặt giũ hình như họ thay nhau
tấp nập cả ngày. Gần trưa là nhu cầu của đàn trâu tắm mát. Lúc trâu
rời bến, bến lại rộn ràng của trẻ con và người lớn ầm ào tắm
gội. Một bến diện tich không rộng mà cả ông già bà lão, con trai, con
gái, trẻ con tắm chung. Không trọng tài mà ranh giới trên mặt nước
được phân chia khá trật tự. Không ai bảo ai mà cái chuyện phô trương,
che dấu vừa như không muốn phô bày lại vừa như chờ đợi…Không dừng lại khi bóng
hoàng hôn đã lặn từ lúc nào, người người vẫn tiếp tục vỗ sóng
nhất là lớp nông dân sau một ngày lao động nặng nhọc trên đồng ruộng.
Có người cơm nước xong nghĩ ngơi chờ đến mười, mười một giờ thong
thả xuống bến hụp một phát rồi thoải mái lên giường làm một giấc
ngon lành đến sáng. Những người đó có biết đâu họ đã bàn giao cái
không gian tĩnh lặng ấy cho các bà thiếu phụ tranh thủ gánh nước
trong đêm. Các bà chị hy vọng đây là gánh nước tinh khiết nhất mà ta
có để sáng mai có bát nước chè xanh, đặc thơm ngon cho chồng uống
trước khi bình minh thức dậy.
Bến ở
cuối làng đơn sơ là vậy thế mà nó làm cho không khí cảnh quan cả
làng đẹp và thơ mộng hẳn lên. Tôi không đại ngôn xin mời các bạn xem
xem: Một con đường cài dài thẳng tắp từ đầu làng đến cuối mà nhu
cầu đến bến Ngã Ba thì như trên đã nói, hình như thường xuyên có
người trên đường. Con đường mà nhiều người qua lại đã nói lên vẻ trù
phú nét ấm áp và giàu nhạc tính của nó. Trên con đường thẳng tắp
ấy ta bắt gặp vô thiên khê là chuyện: nào ông lão đi bộ chú nông dân
vác bộ xe trào nọc đạp nước, người cuối làng lên chợ Mĩ Chánh, cô
gái đầu làng xuống bến gánh nước giặt giũ, trẻ em đến trường
v.v...Gặp nhau, chỉ riêng việc chào nhau đã tạo không khí gần nhau hơn
phải không các bạn!
Lần nầy
tôi xin nói cái Bến Ngã Ba trong những năm khói lửa (1948-1954). Hồi
đó quê ta ở trong thế “cài răng lược” Chính quyền thuộc về VNDCCH
nhưng thỉnh thoảng có những trận càn của phía VNCH và ca nông (đại
bác) từ đồn Mĩ Chánh bất thình lình đội về kể cả trọng liên 12,7
từ Ưu Điềm bâng quơ bắn qua. Dọc đường cái kể cả đường trôn phải có
hầm cá nhân, trong nhà có hầm chữ A và đắp tường đất trước hiên
nhà. Mỗi gia đình làm vậy còn nơi sinh hoạt tập thể đặc biệt là
Bến Ngã Ba lúc nào cũng trên dưới 20-30 người thì làm sao đây?
Nhớ lại
những năm 48--54 đại bác của phía VNCH từ căn cứ Mĩ Chánh bắn về
làm nhiều người chết. Ở khu vực bến Ngã Ba có trường hợp người
không còn xác, thịt văng treo lơ lững trên ngọn tre, cành dương
liễu. Môt cuộc họp dân làng đầu năm
1952 (tôi không nhớ ai đề xuất) là dở cái nhà ngang của gia đình ông
Trần Văn Trinh về làm hầm tại Bến Ngã Ba (gia đình ông Trinh đi về
phía VNCH từ năm 49 -50 hiện bỏ hoang) Dân làng đồng thanh tuy có phân
vân nhưng đành phải làm vì làng không kiếm đâu ra gỗ làm bộ khung.
Các cây mưng sau đường bạng thì khi đóng đồn An Thơ lính VNCH đã chặt
hết sạch. Dở nhà, dân làng phải làm vất vã hằng tuần mới xong. Hầm
to, cao, rộng chứa trên 20-30 người có khi hơn. Có hầm bến tấp nập
trở lại. Đến năm 1954 (khi tôi đi tập kết ra Bắc) hầm vẫn còn không
biết làng phá dở vào năm nào. Đó cũng là một di tích!
Đến bây
giờ bến không còn quan trọng như xưa. Nước sạch đã về tận nhà thoải
mái dùng, tuy vậy có nhiều đêm, tôi gặp người thích cái thú tắm sông
vẫn về ùm xuống và vẫy vùng một hồi mới chịu lên bờ. Rời bến còn
ngoái lại như dặn dò hẹn đêm mai sẽ trở lại.Trong số đó có ông Trần
Văn Bạo năm nay tuổi đã trên dưới 90
Đoạn sông Ô
Lâu dành cho Hưng Nhơn quả là quí hiếm. Thật vậy, hết thời hoàng kim
của Bến Ngã Ba cái bến độc nhất trên hai triền sông Ô Lâu nay nhường
chổ cho chiếc cầu bê tông vĩnh cữu độc nhất nối liền hai bờ sông của
hai tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên Huế (sau cầu quốc gia Mĩ Chánh).
Chiếc cầu nó mở rộng địa bàn từ
con đường cụt Hải Sơn--Hải Hoà sang một vùng trù phú của các xã
của Huyện Phong Điền, tiếp đường quốc lộ 42 vào Huế. Thật là một
hứa hẹn cho Hải Hoà, Hải Tân nói chung và trực tiếp là Hưng Nhơn nói
riêng. Giờ đây chắc chắn không ai cho nơi đây là vùng sâu và vùng xa
của cực nam tỉnh Quảng Trị.
Cám ơn Ô
Lâu đã cưu mang Hưng Nhơn. Tôi tin (có lẽ con tim mách bảo) rằng từ mố
chân cầu Hải Hoà đến giáp địa phận thôn An Thơ sẽ có bờ kè và trên
đó có những hàng cây rợp bóng và những chiếc ghế ngắm mình ra sông
mát rượi./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét