Ông Nguyễn Thanh Xuân ( đầu tiên bên phải ảnh) trong một lần vào thăm quê |
Bị bắt lần thứ nhất
Lợi dụng mùa nước lũ, trong làng các hầm
cá nhân ủng nước, ngoài cồn mã, ruộng cũng lênh láng nước và nước. Phía VNCH tổ
chức những cuộc càn quy mô nhỏ, bất ngờ nhằm đánh lạc hướng đề phòng của ta.
Tin địch về tôi vội chạy ra đồng, băng qua mấy cồn mã, nhào xuống ruộng ngoài
cồn Mồ kiềm giữa. Đạn rơi lụp bụp bốn phía. Tôi vơ đám cỏ lùng tấp lên mặt. Một
chiếc nôốc trượt kéo đám cỏ và chúng xum lại kéo tôi lên. Vừa đánh vừa cho
thuyền rong vào đường bạng xóm Thượng. Tay bị trói chặt. Một thằng
quát: Lý trưởng mày đâu. Làng tôi không có Hội tề. A! thằng ni nói giọng Việt
cọng. Đứa lấy khăn bịt miệng, đứa cởi ủng múc nước đổ vào. Bụng tôi căng lên.
Tôi không biết gì hết. Đứa đá bên này, đứa đá bên kia, người tôi bụng căng
cứng, tay chân mềm nhũn. Dừng! một thằng hét, có tiếng còi tập trung. Chúng dong
tôi đi theo đường trôôn xóm thượng theo dọc đường cái đi về, khi ngang qua nhà
tôi, tôi cố ngẫng cao đầu và ngoảnh ra bờ hói, cố tránh sự khóc lóc của người
nhà, sợ chúng phát hiện ra sẽ liên luỵ tức khắc. Đến cuối làng An thơ chúng đưa
sang Vĩnh an rồi đưa thẳng lên Mĩ chánh, tống vào lô cốt. Nằm lô cốt, té ra
chúng chỉ bắt được một mình tôi. Tôi nhớ chiều nay rất nhiều thanh niên sao
chúng chẳng bắt ai. Lạ nhỉ! Sáng, chúng lôi lên tra khảo và hỏi lung tung. Tại
sao mày chạy trốn. Tôi nói gọn: các ông đem súng bắn lung tung tôi sợ phải
chạy. Thằng này lý sự. Đánh, đánh , đánh là không biết cũng phải biết mà khai.
Cứ thế loanh quanh suốt buổi. Nghỉ, chiều làm tiếp…
Sau ba bốn ngày hành hạ, tối đó một lính vác
súng, một người quần áo trắng đến lô cốt gọi tôi lên có người gặp. Từ bộ ghế
ngựa hai người đứng dậy ra nhìn tôi rồi kéo vào chỉ tôi ngồi cùng bức ngựa. Tôi
rut rè ngồi cạnh. Trên bức phản có mấy đĩa kẹo bánh và ấm nước. Nguyễn Văn Bình
người Văn Quĩ , Nguyễn Văn Bá người Phú kinh, đã cùng tôi làm trong UBKCHC xã
Hải phong. Tôi và Bá có bà con gần: mụ o tôi là mẹ Bá. Cuộc gặp, hai anh
nói đơn giản là chúng ta biết nhau rồi, có chi mà phải nói nhiều; sang đây làm
với nhau cho vui. Anh hiểu cho, tôi và Bình mới biết chiều nay, làm anh khổ. Để
ghi cung của người bị bắt là tôi và Bình mà đã biết rồi thì cần chi phải hỏi
nữa. Yên tâm, nó hạ giọng: “Đừng làm khó cho tôi”. Hơi bất ngờ, tôi chưa nghỉ
ra câu gì để nói, và xin để suy nghĩ. Trở lại lô cốt. Chắc cả hai đều làm Phòng
Nhì cho Pháp rồi. Ngủ dậy thấy những người “chăm sóc” tôi mấy hôm rồi có dáng
như gần gủi. Chiều vợ tôi lên, (sao đẹp thế), tôi suýt bật thành lời. Vợ đưa
tôi tấm khăn tắm cỡ 80x140cm trắng toát, mịn màng tương phản với cảnh lem nhem
trong lô cốt. Bọn lính nháy nhau ở tù mà sang thế. Vợ tôi lí nhí: em không mua,
của ai thì anh biết rồi đó. Tuỳ anh! Tôi định nói cầm về nhưng kịp ghìm lại,
không nên căng thẳng.
Có một sáng sau những ngày
căng thẳng, mệt mỏi và nhàn rỗi, môt người (mặc áo sơ mi trắng) rủ tôi đi
cùng anh ta ra chợ Mĩ chánh dáng vui vẽ như bạn bè. Đi để làm gì, tôi cũng
không hỏi.Tôi đi theo, chưa đến chợ tôi dừng lại và nói không thích đi
chợ, tôi chẳng cần gì.Tôi quay lại, người ấy nói như nài nĩ: thì đi chơi cho
thoải mái, ngồi trong lô cốt không mệt à. Không tôi không đi. Tôi quay về người
ấy cũng miễn cưởng trở lại.Tôi vào lô cốt tự hỏi, sao anh ta cho đi ra chỗ đông
người không có lính kèm, không trói tay, họ không sợ mình trốn à.Tôi chưa tìm
được lời giải. Hình như mấy hôm nay tôi không được tắm, chiếc khăn trắng đã lem
bẩn xấu xí, nhàu nát.
Chưa mờ sáng đã nghe tiếng
gọi ra sắp hàng. Nhìn thấy toàn là người làng Hưng nhơn, dễ chừng hơn hai
chục người. Tôi à lên ngạc nhiên : lần này nó tóm gon tất cả thanh niên làng
mình không sót một ai, không thấy ai bị trói và bị đánh đập như tuần trước bắt
tôi. Chưa kịp hỏi nhau câu gì chúng đã lùa lên xe chở ra Quảng tri rồi chở vào
Huế. Chúng bắt ta đi lính cho chúng. Một ngày ở Văn thánh Võ thánh. Mưa như
trút nước. Sông Hương nước đỏ ngầu. Hôm sau chúng chuyển về đồn Địa linh (trong
số bị bắt, hiện nay còn sống ở làng là Nguyễn Đức Hối, Nguyễn hữu Tân) .
Chỉ mấy hôm, chúng gọi tôi
lên bảo là kiểm tra văn hoá để đi học sĩ quan. Đề ra bài văn là: Có bạn thân
đang bên Cọng sản. Hãy vì tình bạn mà khuyên bạn về với quốc gia, quốc trưởng
Bảo đại.
Không nhớ tôi viết thế nào
mà hai hôm sau, tên Đồn trưởng gọi tôi lênVăn phòng ông ta (chỉ mình ông với
tôi). Ông ta cười nhẹ báo tin tôi được đi học, rồi gằm mặt xuống kể hai tội
của tôi. Một là nội dung bài văn sặc mùi cọng sản và hai là, ông dừng lại
hơn vài ba phút như cân nhắc điều sắp nói. –Sao không báo với tôi mà viết
truyền đơn dán lên khắp tường. Tù, tù rục xương, giọng trấn áp. Tôi thực sự hơi
hoảng, nhưng kịp trấn tĩnh. – Tôi biết gì đâu mà dám lên với quan, họ dán giấy
lên tường à. Đừng ỡm ờ ! Dù có viết toàn chữ kiểu say rượu tôi vẫn khớp được
chữ anh (chữ bài thi và chữ dán trên tường), anh giúp tôi đừng làm tôi
thất vọng. Giọng nó sao mềm thế, tôi đang là cái gì mà đồn trưởng lại bảo giúp
nó. Tôi nghĩ. Tôi nhỏ nhẹ thăm dò: Họ viết nói gì? Anh quên rồi hả ? Ăn uống
khổ, mất vệ sinh, lính mà đánh bạc suốt đêm v.v…Đúng như thế thật, nhưng không
được nói ra. Tôi không biết gì đâu, tôi xin về trại.
Đêm, trằn trọc, mấy tiếng
đi học, giúp nó, giọng mềm và trấn áp của tên đồn trưởng cứ chờn vờn
không sao ngủ được. Sực nhớ câu quốc tưởng Bảo Đại, cái không thiện chí với Bảo
Đại trổi dậy. Lần đi đón tức chết đi được, miệng nói làm công dân hơn vua, làm
cố vấn cho cụ Hồ rồi trốn và trở mặt làm Quốc Trưởng…Ai bầu…? Phải trốn, trốn
bằng cách gì, tôi cũng không biết chỉ biết là phải trốn.
Tình cờ nghe chuyện mưu mẹo
của một người hoản bắt lính bằng cho tỏi vào nách rồi van la nóng rét. Kẹp
nhiệt độ sẽ lên cao. Tôi liều bắt chước và Y tá đồn đang đêm cho tôi vào viện
điều trị bởi sốt đột ngột. Người tôi nhẹ băng, thoải mái nhưng phải đắp chăn
trùm kín mít và không ăn. Tự khổ sai khoảng dăm hôm, rồi “đỡ dần ra”. Sau
đó họ cho ra viện. Cầm tờ giấy ra viện mới biết nơi đây là đồn Mang Cá.
Giấy ghi nghỉ 5 ngày. Nhanh như chớp, đây là cơ hội cho ta trốn. Tôi ghi thêm
sau chữ nghỉ 5 ngày: ở nhà tại làng Ưu điềm. Đã liều là liều. Tôi đi chuyến xe
chiều Huế- Ưu điềm. Đến căn cứ Mỷ chánh, dừng xe kiểm soát. Tay
tôi chìa giấy nhưng vẫn cầm chặt và đọc luôn nghỉ 5 ngày tại Ưu điềm bằng tiếng
Pháp. Tên lính vội đẩy tay tôi và cả giấy, miệng nói được rồi, được rồi. Nhẹ
hắn người nhưng không dám thở. Đến giờ này tôi như đang ngồi trên đống lửa:
không thể xuống chợ Ưu Điềm được vì đó là đồn lính vả lại nhiều người biết tôi.
Có thể do mừng mà sinh chuyện, lòng tự nhủ. Qua khỏi đồn Câu Nhi Hoà, phải
xuống! Vào bất cứ nhà nào phía bở sông, đêm lội sông sang Câu nhi, hoặc băng
đồng sang thôn Chùa, thôn Niêm, làng Ưu điềm. Xuống xe, trời chạng vạng, rẽ
đường cái bước vào ngõ như vào nhà mình, trong nhà có người hốt hoảng chạy ra.
Tôi trốn lính. Tôi là con ông Cửu Liên, thợ mộc làng Hưng nhơn. Ở gần đồn, vào
nhà, tiếng nói âm ấm trong nhà vọng ra. Tốt rồi. Bác chủ nhà lại tiếp: Tôi về
làm ruộng với gia đình mình nhiều, tôi cũng biết chú nhưng chú làm việc mô trên
tỉnh trên huyện chi đó nên không gặp mấy. Quay sang sai con gái nấu cơm nóng
cho chú ăn ấm bụng. Bây giờ tôi mới thấy bụng mình đói quặn. Thay bộ áo quần
nông dân, 3 người đưa tôi lên thôn Chùa làng Ưu điềm quê vợ tôi.
Chặng đường quen mà lạ, lạ
mà thân thương: Ưu điềm - Thượng nguyên - Trầm - Khe mương - Hải đạo - Hưng
nhơn - Hải phong cho đến ngày tập kết ra Bắc. Đoàn của xã Hải phong do Nguyễn
Ngôn (người Hà lỗ) làm Trưởng đoàn. Hưng nhơn chỉ một mình tôi đi. Ngày
28-7-1954, hai ngón tay giơ lên biểu tượng của xa nhà hai năm thế rồi hai
mươi môt năm biền biệt và vẫn biền biệt cho đến khi tôi ngồi viết những dòng
này
***
Năm 1973, nhân đọc một bài viết
của nhà văn miền Nam gửi ra nói về một trong những chuyện cán bộ cốt cán
của ta theo về phía Mỹ Nguỵ, có trường hợp bị trở thành tay sai đắc lực cho nó.
Chuyện rằng cán bộ ta bị bắt, có người chúng cho ăn uống tử tế, tự do đi lại
(tất nhiên có người theo dõi), mỗi ngày mỗi được ăn uống tốt hơn, cho đi chơi
đến chổ đông người với thái độ thân thiện. Môt thời gian, nó thấy “cán bộ ta”
đã mê cảnh ăn chơi và đặc biệt bị dư luân bà con xôn xao rằng đã theo giặc.
Chúng hỏi: anh bây giờ đã muốn về nhà chưa, muốn về thi cho về, như không muốn
về thì ở lại với chúng tôi. Chỉ cần kí vào giấy nầy: ĐƠN CHIÊU HỒI..
Bất giác tôi rùng mình nhớ
trường hợp mình bị bắt, có lẽ cũng theo dạng nầy. Ba ngày sau khi tôi
trốn, ở làng đã biết tôi trốn do người Phú kinh đưa tin từ Huế ra. Những người
làng bị bắt đi lính đang ở đồn Địa linh (Huế) tưởng tôi còn nằm viện chưa về
chứ không biết tôi đã trốn. Năm 2004 chú Tân (đã nói ở trên) hỏi tôi chơ trốn
khi mô và đi đường mô mà tài rứa.
Nếu những ngày bị bắt ở Mĩ
chánh, chỉ riêng việc tôi ra chợ với “phòng nhì” thì sự việc sẽ khác. Chợ Mĩ
chánh sáng nay có chuyện gì khác, tức khắc chợ chiều Ưu điềm biết
hêt: làng tôi, làng Ưu điềm đi chợ mua bán đông lắm mà tôi lại nhiều
người biết.
Tôi sẽ không dám vào xóm Câu Nhi
Hoà cũng không dám đến thôn Niêm, thôn Chùa nếu tôi đi chợ Mĩ chánh với
chúng. Họ sẽ trói gô tôi và “đem trả lại đồn Mĩ chánh”. Tôi biết họ là những
người trung thành tuyệt đối với bên ta (Việt minh).
Cũng may cho tôi và
cũng đúng với tâm trạng buổi đầu bước vào đời.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét