Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
(Trích câu cuối bài Nhớ chùa) thơ Huyền Không
Chùa Vạn An được gọi là chùa làng Văn Quỹ
Có
lẽ trên đất nước mình, Chùa Quê đều như vậy: Chùa với Đình tuy hai mà
một. Nghe quí cụ lão thành kể lại: ngày xưa Chùa và Đình làng tôi thờ
chung trong một ngôi nhà rường năm gian, tiền Phật hậu Linh (trước thờ
Tôn Tượng Bổn Sư Thích Ca, sau thờ linh vị Thành Hoàng (khai khẩn) hai
gian tả hữu thờ Thất Tộc (Bảy họ: Lê, Nguyễn, Đỗ, Trần, Ngô, Phạm,
Nguyễn).Năm 1957, Chùa tổ chức quy y dưới sự chứng minh của Ân sư Thượng Tâm Hạ Thái, pháp hiệu Thiện Trí, tự Hoà Khương, bút hiệu Dạ Sỹ Thiện Trí, thế danh Nguyễn Diệu, sinh năm Đinh Mùi (1907), niên hiệu Thành Thái năm thứ 19. Đại lão Hòa Thượng Thích Thiện Trí, Giáo Phẩm chứng minh Giáo Hội Phật Gíao tỉnh Thừa Thiên Huế, tọa chủ chùa Hiếu Quang. Ngoài kiến thức Phật học, Ngài còn tinh tường về các thể thơ, đối, liễn, nghi lễ và là một soạn giả ca Huế. Ngài xuất gia lúc 12 tuổi, đầu sư với HT Thích Phước Hậu, trụ trì chùa Linh Quang Huế. Năm 27 tuổi (1932), Ngài Thọ Tỳ Kheo, năm 75 tuổi Ngài được Giáo Hội suy tôn lên ngôi vị Hòa Thượng… Về thân thế của Ngài, quê nội là làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong, nhưng Ngài được sanh ra và lớn lên cho đến ngày xuất gia tại quê ngoại là làng Văn Quỹ, xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. (Chỉ xin trích cuộc đời và hành trạng của HÒA THƯỢNG để hàng đạo hữu chùa Văn Quỹ biết Bổn Sư của mình…(Tiểu sử trích theo Mai Lâm Giám Lục”).
Bồ-tát Quan Âm lộ thiên chùa Văn Quỹ
Mạng mạch Đạo Pháp bén rễ ăn sâu, sum suê hoa trái kể từ đây.Tuổi thơ tôi thường theo Mạ* đi Chùa, mới đầu ngại ngùng e thẹn, tay cứ níu lấy vạt áo dài của Mạ, ngập ngừng từng bước một vào điện thờ mà run. Mạ trìu mến dỗ dành: Vào lễ với Mạ, Bụt thương con trẻ lắm, con không nhớ Bụt hiện trong chuyện Tấm Cám mà mệ thường kể cho con nghe à. Mà thiệt, ông Bụt ngồi xếp bằng trên cao nớ răng mà hiền, mắt nhìn xuống như nhìn tôi, miệng tủm tỉm cười mãi không thôi, vô tình tôi ngoái nhìn lại sau lưng phía trên cửa ra vào, một ông mắt trợn trắng bóc, mặt đỏ lòm bộ tướng dữ tợn. Tôi níu tay Mạ vừa chỉ vừa thụt lùi. (Sau này lớn lên mới biết đó là Ngài Hộ Pháp).
Bọn con nít chúng tôi càng lâu càng gắn bó với chùa, thường theo Mạ đi chùa. Mạ vào lễ còn bọn tôi bày đủ trò phá phách, vô tâm nghich ngợm chơi đùa, nhất là bắt chim, phía sau tượng Ngài Hộ Pháp có bức hoành phi kín đáo cho chim sẻ tha hồ làm tổ. Té ra trông tướng ngài dữ dằn lại quá hiền, bọn tôi leo trèo đụng tay, đụng chân, có đứa cả gan sờ râu, rứa mà đêm về không ai nằm chộ (mơ) và đau ốm chi nơi. Lần đầu trong đời học sinh ôn thi tiểu học và đệ thất cũng rủ nhau lên chùa học cho thanh tịnh, mau thuộc bài và lạy phật cầu nguyện… ...
Thế rồi...!
Chiến tranh bùng nổ ngày càng khốc liệt Tôi đành xa quê, bỏ làng, bỏ chùa tản cư lánh nạn, bước đi mà ngậm ngùi ngoái lại bâng khuâng khi nhớ về câu thơ của Nguyễn Bính mới thấm thía làm sao:
Mai này Tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa !
Vào Huế, ngày hai buổi đi học đạp xe qua những danh lam thắng cảnh Cố Đô, những ngôi cổ tự già lam uy nghiêm trầm mặc và những mái chùa nho nhỏ như bóng dáng chùa quê: Hiếu Quang, Cát Tường, Tịnh Bình, cũng thờ Phật, cũng kinh kệ hôm mai mà sao nghe lạ lẫm, không làm cho Tôi khuây khỏa, răng mà nhớ Chùa, nhớ Phật ở làng mình da diết khôn nguôi.
Như Hòa Thượng Mãn Giác (thi sĩ Huyền Không) quê làng Phương Lang, xã Hải Ba, Hải Lăng, Quảng Trị đã minh chứng: “Tình quê của tôi nó thâm nhập như vậy nên chi trong thời chiến tranh về thăm làng không được, vào năm 1956 tôi đã sáng tác bài thơ Nhớ chùa!”
Văn Quỹ khi hoàng hôn buông xuống
Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Yên lặng chùa tôi ngập nắng vàng(1)
Lang
thang làm thân cùng tử, phiêu bạt nơi xứ người, nhìn Gia Đình PhậtTử
“người dưng” sinh hoạt, văng vẳng bên tai những bài hát "Dây thân ái lan
rộng muôn nhà, tay sắp xa nhưng tim không xa ….”(2). “Ra đi lìa xa mái
hiên chùa, còn đâu bóng lam hiền…….”(3). Lòng bồi hồi, quay quắt nghèn
nghẹn nước mắt chực trào ra thôi. Mỗi chiều hôm nghe chuông chùa ngân
nga là mường tượng chuông chùa làng mình chầm chậm rơi rơi, man mác u
hoài lãng đãng sương khói đôi bờ Ô Lâu.
Sông Ô Lâu
Chiến
tranh rồi cũng qua, mái chùa cũng theo từng nhip sống của dân làng mà
đứng vững. Nhớ những ngày khó khăn đó, bà con học bổ túc văn hóa, mỗi
người đi học đều mang theo một cây đèn dầu hoặc ngọn đuốc bằng tre gặp
đêm rằm, mồng một thì ghé chùa góp thêm ánh sáng cho ngôi Phạm Vũ tụng
một thời kinh rồi đi học, chưa biết chữ nhưng Chú Đại Bi và Tâm Kinh thì
thuộc làu. Thế mới thẩm thấu sự nhiệm mầu bất khả tư nghị “Vô nhất
vật” của ánh sáng Vô Tận Đăng của Lục Tổ, nguy khó với chiến tranh, lao
đao với bão lũ thì cùng nhau tìm về núp bóng dưới mái chùa quê an bình.
Là những nông dân lam lũ, một nắng hai sương với ruộng đồng, được Chư
Tôn Đức ở Quảng Trị và Huế thường Quang Lâm sách tấn, được thấm nhuần
Đạo vị giải thoát và ánh sáng trí tuệ soi đường đã chắt chiu chăm chút
ngôi Gìa lam uy nghiêm cửu trụ an nhiên hằng tại nơi Đất Làng Quê Tôi.
Đường trung tâm làng Văn Quỹ
Có
một ngôi chùa như thế ở miền quê là nơi trưởng dưỡng Đạo Tâm của quý
bác trong làng, nơi tu học khơi nguồn trí tuệ của Đoàn sinh Gia đình
Phật Tử và cũng là nơi ưu ái dừng chân của các đoàn từ thiện về cứu trợ
họp bàn cùng Khuôn Giáo hội phân phối hàng quà trong tinh thần “Bất
nhị” của Tâm Kinh: giàu, nghèo, ghét, thương, lương, giáo. Quê tôi có 2
tôn giáo: Phật Giáo và Công Giáo, tín đồ rất đông, là anh em huyết thống
và con dân của 7 họ (tộc)Cứ mỗi lần bất an, tôi chống gậy lên chùa ngồi yên ả một mình dưới tượng đài Bồ Tát Quán Thế Âm, thấy thanh thản đến lạ lùng, nhìn đoàn sinh GĐPT sinh hoạt lại vẳng về : “ Hôm nay về dưới bóng cha lành, lòng con thấy nhẹ nhàng, vì tâm con yên vui…”(4) Thì lòng khinh an, cảm động đến rưng rưng.
Chùa làng Văn Quỹ, nơi che chở tuổi thơ tôi rong chơi an lành thì cũng là nơi nương tựa tuổi già chất ngất bình yên giữa phong ba đời thường.
Mùa sen PL: 2557
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét