Nhiều đời nay, con cháu dòng họ Nguyễn Đức luôn tự hào về báu vật quý giá mà tổ tiên truyền lại. Đó chính là ngôi nhà thờ họ 180 năm tuổi, nơi lưu giữ 15 bài thơ cổ dạy thế hệ sau cách đối nhân, xử thế.
Gìn giữ cho mai sau
Đã thành thông lệ, vào sáng mồng một Tết Nguyên
đán, con cháu dòng họ Nguyễn Đức, làng An Thơ, xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng
(Quảng Trị) lại thức dậy từ tinh mơ, vận khăn áo chỉnh tề và tập trung tại nhà
thờ họ.
Trong bảng lảng khói hương, các bậc cao niên
thành kính thắp nén hương thơm mời tổ tiên trở về chứng giám sự trưởng thành
của con cháu. Sau thủ tục ấy, các bạn trẻ tự giác quây quần lại cùng nghe cha
anh giới thiệu về lịch sử dòng họ, đặc biệt là ngôi nhà thờ linh thiêng, nơi
lưu giữ 15 bài thơ cổ. Trải qua nhiều biến động, nhà thờ dòng họ Nguyễn Đức vẫn
trường tồn như một chứng nhân lịch sử.
Hầu như lúc nào ông Nguyễn Đức Cư cũng kính cẩn
đọc đôi câu đối trên tấm bình phong: “Thân trụ địa duy vạn cổ/ Giang phong sơn
nguyệt thiên thu”(tạm dịch nghĩa: Trụ do thiên định có ở trời đất này từ xa
xưa/ Cùng với gió trăng sông núi tồn tại mãi mãi).
Đối với ông Cư cũng như nhiều người con dòng họ
Nguyễn Đức, đôi câu đối này thể hiện niềm tin của tổ tiên rằng ngôi nhà thờ
cũng như linh hồn họ tộc sẽ sống mãi muôn đời. Vì vậy, ông rất hãnh diện khi
góp sức gìn giữ công trình thiêng liêng này suốt 20 năm qua.
Thực tế, nhiều lần vợ con nhỏ to vận động ông vào
TP. Hồ Chí Minh để đoàn tụ gia đình. Nhưng, hễ đi dăm ba ngày, ông Cư lại nóng
ruột, nóng gan rồi khăng khăng quyết định trở về. Ông cho biết: “Con cháu dòng
họ Nguyễn Đức dù bôn ba tứ xứ vẫn luôn giữ hình ảnh nhà thờ họ trong tim. Riêng
tôi, ngôi nhà thờ 3 gian, 2 chái này là một phần tâm hồn”.
Lật lại quá khứ, nhà thờ dòng họ Nguyễn Đức được
xây dựng vào năm Minh Mạng thứ XIII (1832). Cụm kiến trúc có bình phong, tường
bao quanh, chính điện gồm lầu Ngọ Môn, thành và trụ biểu... Gia phả dòng họ
Nguyễn Đức ghi rõ: “Năm Minh Mạng, thập niên, nhị nguyệt, tam thập nhật – tức
là vào ngày 13 tháng 2 năm Kỷ Sửu 1829, hội đồng bổn tộc đã lập biên bản thiết
niệm thành tâm, đóng góp ngân quỹ để xây dựng nơi thờ phụng tổ tông”.
PGS. Tiến sĩ Nguyễn Tá Nhí và Tiến sĩ Hoàng Hồng
Cẩm (công tác tại Viện nghiên cứu Hán - Nôm) khi dịch thuật các bài thơ này đã
thốt lên: “Không cần tìm đâu xa, đây chính là kho báu văn hóa”.
Linh ứng với câu đối trên tấm bình phong, nhà thờ
dòng họ Nguyễn Đức luôn đứng vững dù trải nhiều sóng gió và trở thành nơi che
chở dân nghèo. Các bậc cao niên trong họ đến giờ vẫn nhắc lại câu chuyện về
trận lũ lịch sử tháng 10 năm 1970. Khi nước dâng thành bể, bà con đã kịp dùng
tre làm sàn sát nóc nhà, ngồi tránh lũ. Các bức tường của nhà thờ cũng bị phá sập
để ghe thuyền đưa người vào bên trong. Nhờ vậy, hàng trăm người dân làng An Thơ
thời bấy giờ đã được cứu sống. Nhà thờ dòng họ Nguyễn Đức đã cũng che chở nhiều
thế hệ người dân làng An Thơ trong những trận lũ lớn năm 1924, 1955, 1970 và
1971.
Trải qua bao sự tàn khốc, ác liệt trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhà thờ dòng họ Nguyễn Đức vẫn
đứng vững trước sức tàn phá của đạn bom. Ông Nguyễn Đức Đa, một vị cao niên
trong họ kể lại: “Nhà thờ dòng họ mình từng bị giặc Pháp, giặc Mỹ và ngụy chiếm
đóng. Dù nhà cửa người dân bị giặc đốt sạch nhưng nhà thờ chẳng bị hư hại gì.
Năm 1968, giặc Mỹ hai lần thả bom xuống khu vực này, vậy mà nhà thờ vẫn đứng
vững".
Lưu truyền thơ cổ
Trong chuyến viếng thăm nhà thờ dòng họ Nguyễn
Đức, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi chứng kiến một cậu bé chỉ tay vào dòng
thơ chữ Hán, đọc và giải thích rõ ràng ý tứ câu thơ cổ: “Phú quý bất dâm bần
tiện lạc/ Nam nhi đáo thử thị hào hùng” (tạm dịch: Giàu sang chẳng phóng túng
bừa bãi/ Trang nam nhi đến mức như thế thì thật hào hùng). Hỏi ra mới biết, bao
giờ có dịp hội họp tại nhà thờ, những em bé đều được ông bà, cha mẹ hướng dẫn
đọc và ân cần phân tích từng từ trong 15 bài thơ cổ. Thành nếp, các vần thơ in
sâu trong tiềm thức các em, rất gần gũi nhưng không kém phần trang trọng.
15 bài thơ cổ viết theo thể Thất ngôn bát cú
Đường luật chính là nét chấm phá đặc biệt trong tổng thể kiến trúc nhà thờ dòng
họ Nguyễn Đức. Những bài thơ này được chạm khắc bằng chữ Hán, rất sắc nét. Mỗi
bài nằm trên một bản gỗ mít, đặt ở phía dưới mái trước, bên trong nhà thờ. Ông
Nguyễn Đức Tường, một người văn hay, chữ tốt trong họ giải thích thêm: “Nét
khác lạ của những bài thơ này là cách trình bày dọc, đọc từ trên xuống dưới,
hàng năm chữ, hàng ba chữ. Bố cục ấy giúp tránh được việc phạm luật phong thủy,
thay vào đó ngụ ý nhắc nhở đến “tam cương, ngũ thường”.
Bên cạnh đó, tất cả bài thơ cổ nơi đây đều không
có tên tác giả và nhan đề. Theo những người đứng tuổi trong họ, 15 bài thơ này
có thể do các bậc am hiểu chữ Nho họ Nguyễn Đức sáng tác hoặc được tuyển tập từ
những bài thơ xuất sắc thời bấy giờ. Đến nay, câu hỏi này vẫn chưa có lời giải
đáp thỏa đáng.
Tuy nhiên, điều thu hút sự quan tâm đặc biệt của
nhiều thế hệ con cháu dòng họ Nguyễn Đức lại là hai chữ “Kỉnh họa” được khắc
dưới bài thơ cổ - tức là mời mọi người đối đáp, viết thêm. Có lẽ vì thế mà con
cháu họ Nguyễn Đức luôn nêu cao ý thức trong việc tìm hiểu cái hay, cái đẹp của
từng bài thơ cổ và không ngừng trau dồi vốn hiểu biết để có thể viết tiếp những
bài thơ tương xứng.
Dù phản ánh nhiều vấn đề khác nhau trong đời sống
nhưng các bài thơ cổ ở nhà thờ dòng họ Nguyễn Đức đều hướng đến giáo dục con
cháu cách đối nhân, xử thế. PGS. Tiến sĩ Nguyễn Tá Nhí và Tiến sĩ Hoàng Hồng
Cẩm (công tác tại Viện nghiên cứu Hán - Nôm) khi dịch thuật các bài thơ này đã
thốt lên: “Không cần tìm đâu xa, đây chính là kho báu văn hóa”. Hiểu giá trị ấy
nên các câu thơ Hán vốn khá xa lạ với lớp trẻ ngày nay lại được con cháu dòng
họ Nguyễn Đức khắc tạc vào tâm.
Những câu thơ như: “Tiên năng liễu tận thế gian
sự/ Nhiên hậu phương ngôn xuất thế gian” (tạm dịch: Trước tiên hãy hiểu biết
mọi việc trong thế gian/ Rồi sau mới nói đến việc ra khỏi thế gian), “Nhân sinh
bất thức kì trung vị/ Cẩm tú y quan thổ dữ khôi” (tạm dịch: Sống trên đời chẳng
biết ở trong đó có mùi vị gì/ Thì áo gấm mũ thuê cũng chỉ là đất với tro mà
thôi)... đã trở thành phương châm sống của không ít bạn trẻ.
Em Nguyễn Đức Phúc, sinh viên năm 3, Trường Đại
học Bà Rịa – Vũng Tàu chia sẻ: “Từ nhỏ, em đã được bố mẹ giới thiệu về các bài
thơ cổ trong nhà thờ họ. Càng lớn, em lại hiểu thêm về những bài thơ ấy. Bây
giờ, dù đi học xa quê nhưng em vẫn không quên những bài thơ cổ và luôn nhắc
mình lấy đó làm bài học quý”.
Trải suốt 180 năm, dẫu được con cháu cố công gìn
giữ nhưng những bài thơ cổ trong nhà thờ dòng họ Nguyễn Đức vẫn không tránh khỏi
sự tác động của khí hậu miền Trung vốn nổi tiếng khắc nghiệt. Hiện tại, 4 bài
thơ khắc chạm trên bản gỗ mít đã mờ nét. Đó cũng là nỗi trăn trở lớn của con
cháu dòng họ Nguyễn Đức.
Trầm ngâm nhìn những nét thanh, nét đậm trên bài
thơ cổ, ông Nguyễn Đức Đa chia sẻ: “Chúng tôi rất mong các sở, ban ngành có kế
hoạch phục dựng, bảo tồn những bài thơ 180 năm tuổi này. Đó sẽ là tài sản văn
hóa, tinh thần quý giá cho con cháu sau này. Mong rằng đôi câu đối trên tấm
bình phong: “Thân trụ địa duy vạn cổ/ Giang phong sơn nguyệt thiên thu” sẽ mãi
mãi trọn vẹn ý nghĩa”..
Nhà thờ Họ Nguyễn Đức - Làng An Thơ - Hải Hoà |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét